Menu

Tuesday, January 31, 2012

Thành Tây Đô (thành Nhà Hồ) : một ngôi thành đá độc nhất vô nhị ở Việt Nam

Thành Tây Đô (thành Nhà Hồ)
một ngôi thành đá độc nhất vô nhị ở Việt Nam




Thành Tây Đô - một ngôi thành đá độc nhất vô nhị ở Việt Nam, thuộc địa bàn xã Vĩnh Yên, Vĩnh Tiến, Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, cách thành phố Thanh Hoá khoảng 45km về phía Đông, cách thị xã Bỉm Sơn 30km về phía Bắc và cách Hà Nội 145 km về phía Bắc. Nhân dân vẫn quen gọi Thành Tây Đô là Tây Giai, An Tôn hay Thành Nhà Hồ - vì người chủ trương xây dựng thành là Hồ Quý Ly, người đã dựng nên một triều đại phong kiến Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XV.
 

Những năm cuối thế kỷ XIV, triều Trần đi sâu vào con đường suy yếu. Phía nam đất nước, quân Champa đã nhiều lần kéo ra cướp phá, kinh thành Thăng Long bị chúng hai lần tiến đánh khiến vua quan nhà Trần phải rời bỏ kinh thành. Phía bắc giặc Minh cũng lăm le giòm ngó, tìm mọi cách để âm mưu thôn tính nước ta.
 
Trước tình thế trên, Hồ Quý Ly Một viên qan đầu triều, nắm giữ quyền lực trong tay dã chuẩn bị một kế hoạch đối phó mới với tình hình của đất nước. Vì vậy năm 1397, Hồ Quý Ly sai viên thượng thư Bộ Lại,  kiêm Thái sử lệnh là Đỗ Tĩnh vào nghiên cứu vùng đất Thanh Hoá, một căn cứ địa vững chắc đồng thời là quê hương của họ Hồ để xây dựng thành trì chuẩn bị cho việc rời đô từ Thăng Long vào Thanh Hoá. Các làng Tây Giai, Xuân Giai, Đông Môn, thuộc xã Vĩnh Tiến, Vĩnh Long và An Tôn xã Vĩnh Yên được chọn làm nơi xây dựng kinh thành. Khi thái tử An, tức cháu ngoại của Hồ Quý Ly lên ngôi lấy niên hiệu là Thiếu Đế, Thành Tây Đô trở thành kinh đô của nước ta từ đó. Đến năm 1400 vua Thiếu Đế qua đời, Quý Ly chính thức lên ngôi vua lập nên triều Hồ.
 
Đến bây giờ, chúng ta không khỏi khâm phục trước tài nghệ xây dựng vật liệu bằng đá khối như đối với thành đá Tây Đô. Đặc biệt với thời gian chỉ vẻn vẹn 3 tháng (từ mùa xuân 1397), toàn bộ bức thành đồ sộ đã được xây dựng bằng đá khối, trong đó có những phiến nặng lên tới trên 2 tấn trong khi không có một thiết bị hiện đại vận chuyển lên cao nào ngoaì sức người thuần tuý và cũng chỉ 3 năm (Đến 1400), toàn bộ kinh thành đã được xây dựng hoàn tất với các điện, đài nguy nga, tráng lệ. Cho đến hôm nay, kỹ thuật xây dựng thành vẫn là một điều bí ẩn đối với khoa học xây dựng thế kỷ XX. Nhìn những phiến đá lớn được mài nhẵn, chồng khít lên nhau, tạo nên bức tường thành đồ sộ, ai cũng tự đặt câu hỏi không biết người xưa đã sử dụng phương tiện gì để vận chuyển và nâng lên cao những khối đá lớn như vậy?
 
 
Về mặt kiến trúc, thành có hình chữ nhật, mở ra bốn cổng Đông, Tây, Nam, Bắc gọi là cổng, Tiền, Hậu, Tả, Hữu. Trong đó cổng tiền là còn nguyên vẹn hơn cả. Cổng mở ra ba cửa, cửa giữa rộng 5,8m cao 8m, hai cửa hai bên rộng 5m cao 7,8m. Tất cả các cổng đều được xây cuốn vòm, kiến trúc chữ U, bằng đá xanh đen mài hình muối bưởi, nhờ trọng lượng nên chúng tự nêm chặt vào nhau. Các cánh cổng đều được làm bằng gỗ lim phiến dầy, dưới chân có lắp hai bánh xe bằng đá. Tất cả các bức tường thành đều cao trên 6m, trên mặt có đường đi rộng 4m. Tường thành xây bằng những viên đá khối lớn 2m x 1m x (0,7m). Những viên đá quá nặng phải đắp đất seo lên mới xây dựng được. Mặt trong thành lèn đất day như đắp đê. Từ cửa Nam có một con đường lát đá hoa chạy xuyên suốt trục bắc nam của thành vươn đến tận chân núi Đốn Sơn (Núi Đún), là nơi dựng đàn tế Nam Giao của triều Hồ.
 
Ông chủ trương chia Tây Đô làm hai; khu thành nội và khu thành ngoại. Khu thành ngoại là toàn bộ khu dân cư gồm các làng xã, phố phường, nơi mọc lên cả các dinh thự của các quan lại. Hồ Quý Ly còn cho trồng tre, đào hào thành sông để nối liền với sông Mã, Sông Bái để tiện việc chuyên trở, sử còn ghi “sai Trần Ninh đốc thúc người phủ Thanh Hoa trồng tre gai, phía nam từ Đốn Sơn, Phía bắc từ An Tôn phía tây từ Vực Sơn vây bọc làm La Thành” đến nay các vết tích đó còn lại không nhiều, chỉ còn lại dấu tích của những hào sâu bao bọc quanh thành mà thôi.
 
Đương thời Hồ Quý Ly đã cho kiến thiết trong nội thành các cung điện, nhà cửa, phố xá, sân hồ… chẳng khác gì ngoài Thăng Long, chỉ khác là các cung điện của thành Thăng Long được xây dựng bằng gỗ còn các cung điện của thành Tây Đô được xây dựng và trạm trổ hoàn toàn bằng đá khối. Theo các thư tịch cũ cho biết thì trong thành thời đó có điện Hoàng Nguyên, các cung Diên Thọ, Phù Cực, Đông Cung, núi Thọ Kỳ, hồ Dục Tượng… rất nguy nga tráng lệ. Năm 1403 lại còn xây dựng thêm hai công trình kiến trúc nữa là Đông Thái Miếu và Tây Thái Miếu. Cũng tại nội thành này là địa điểm để tổ chức các kỳ thi Thái học sinh (tiến sĩ), đó là vào năm 1400 dưới triều Hồ Quý Ly và năm 1405 dưới triều Hồ Hán Thương.
 
Hiện nay, trong thành di vật còn sót lại có giá trị nhất là đôi rồng đá. Nhưng cũng thật đáng tiếc, trải qua thời gian, do không được bảo vệ và ý thức người dân chưa cao nên đôi rồng đá đã bị mất đầu. Dù sao thì đây vẫn là hiện vật có giá trị nhất. Đôi rồng mỗi con dài mươi thứơc, uốn khúc uyển chuyển và hùng dũng như đang bay. Cái tráng khí hào hùng ấy do bàn tay tài hoa của người thợ đá làng Nhồi tạc nên.
 
Trên 6 thế kỷ đã trôi qua, Tây Kinh – một kinh thành đồ sộ với các điện đài nguy nga tráng lệ. Song tất cả chỉ còn là đống đổ nát, không một vết tích đền đài nào còn sót, chỉ còn lại bức tường thành là có thể minh chứng cho một triều đại đã tồn tại, cũng như mãi mãi khẳng định một loại hình kiến trúc độc đáo, tiến bộ bậc nhất của Việt Nam - Kiến trúc thành luỹ bằng đá.
 
thêm chi tiết:
1. Thành nhà Hồ được xây dựng vào năm 1397 dưới thời Hồ Quý Ly và được gọi là Tây Đô để phân biệt với Thăng Long thành - Đông Đô.
Thành được xây dựng theo lối kiến trúc hình chữ nhật, mặt Bắc Nam dài chừng 900m, mặt Đông Tây dài chừng 700m, có chiều cao trung bình khoảng 7m. Thành có bốn cổng chính ở bốn mặt khác nhau, bên ngoài được xây bằng đá và bên trong được đắp bằng đất. Cổng Bắc và cổng Nam được nối với nhau bằng một con đường sỏi đá, đi ngang qua những ruộng lúa đang vào đòng. Hiện cổng Bắc còn khá nguyên vẹn với ba mái vòm uốn cong và tường thành phía Nam vẫn đứng thi gan với đất trời...   
2.
Thành nhà Hồ sẽ là di sản văn hóa thế giới?
Cổng phía nam của thành nhà Hồ, huyện Vĩnh Lộc (Thanh Hóa) - Ảnh: Hà Đồng
TT - Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa Nguyễn Văn Lợi vừa ký quyết định thành lập ban chỉ đạo xây dựng di sản văn hóa thế giới thành nhà Hồ (huyện Vĩnh Lộc) và di tích khảo cổ hang Con Moong (huyện Thạch Thành)...
Ban chỉ đạo sẽ phối hợp xây dựng hồ sơ khoa học hai khu di tích này để trình UNESCO công nhận di sản văn hóa thế giới.
Thành nhà Hồ
được vua Hồ Quý Ly xây dựng năm 1397 (nằm ở xã Vĩnh Long và Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc), với bốn cổng là: tiền, hậu, tả, hữu thể hiện kỹ thuật xây dựng, kiến trúc đá mẫu mực. Những khối đá lớn được đẽo vuông vức, có kích cỡ trung bình: 2,2m x 1,2m x 1,5m, nặng khoảng 10 tấn, được xếp chồng lên nhau theo hình chữ công, tạo thành vách thẳng đứng, không có mạch vữa...
Hang Con Moong
nằm ở bản Thành Trung, xã Thành Yên, huyện Thạch Thành, dài khoảng 40m, thông hai đầu, trần hang có chỗ cao 10m. Tầng văn hóa trong hang rất dày (3-3,2m), chứa đựng vết tích văn hóa của nhiều thời đại, từ đá cũ qua đá mới. Theo Viện Khảo cổ học VN, niên đại của lớp sớm nhất là cách đây khoảng 15.000 năm, lớp giữa khoảng 10.000 năm, lớp trên khoảng 7.000 năm.
HÀ ĐỒNG (tuoitreonline)

3.
Thuộc địa phận hai xã Vĩnh Tiến và Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, từ thành phố Thanh Hóa, theo Quốc lộ 45 ngược lên phía Bắc, ngược con đường Thiên Lý xưa kia khoảng 2km là chúng ta đến thành Nhà Hồ. Được Hồ  Quý Ly xây dựng năm 1397, đời vua Trần Thuận Tông (1388 - 1398), thành Nhà Hồ còn có tên gọi khác là thành Tây Đô, hay còn gọi là thành An Tôn và chính thức được coi là kinh đô của đất nước ta thời đó.
   
Thành Nhà Hồ
Để đối phó với âm mưu xâm lược đang đe dọa, với cách nhìn của một nhà quân sự, Hồ Quý Ly đã chọn đất An Tôn - một nơi địa hình vùng núi, thế đất chật hẹp, hẻo lánh để xây thành. Thành được xây dựng ở khoảng giữa hai con sông - sông Mã và sông Bưởi, phía Bắc có núi Thổ Tượng, phía Tây có núi Ngưu Ngọa, phía Đông có núi Hắc Khuyển, phía Nam còn là nơi hội tụ của sông Mã chảy từ phía Tây về và sông Bưởi chảy tới.
 
Thành Nhà Hồ được xây dựng hết sức độc đáo - bên ngoài xây đá, còn bên trong chủ yếu là đắp đất. Được xây dựng trên bình đồ kiến trúc gần vuông, hai mặt Nam và Bắc của thành Nhà Hồ dài hơn 900m, Đông và Tây dài hơn 700m và tường thành bao quanh. Độ cao trung bình của thành Nhà Hồ từ 7 - 8m, có nơi như  ở cửa Nam cao tới 10m - một bằng chứng về sức lao động và tài năng khéo léo của nhân dân ta lúc bấy giờ.
 
Thành Nhà Hồ được tạo lên bởi những tảng đá xanh đẽo vuông vức, công phu, ít nhất cũng tạo được từ 4 đến 5 mặt phẳng, có tấm rất to ở cửa Tây dài tới 5,1m; rộng 1,59m; cao 1,30m, được xếp chồng lên nhau thành hình chữ công. Những phiến đá to và nặng như thế được xếp chồng lên nhau, không cần chất kết dính mà vẫn đảm bảo độ bền vững. Qua 600 năm thử thách, cơ bản phần ốp đá bên ngoài hầu như  vẫn còn nguyên vẹn.
 
Thành Nhà Hồ có 4 cửa: Đông, Tây , Nam, Bắc. Mỗi cửa đều được mở ở chính giữa. Các mặt thành kỹ thuật ghép đá đạt đến trình độ cao. Những cổng thành được xếp các phiến đá theo hình múi cam, có kích thước rất lớn. Với hai cánh cửa dày, nặng và chắc được thể hiện qua dấu vết để lại của những lỗ đục vào đá và những chỗ lắp ngưỡng cửa. Xưa kia khi đóng, khi mở bởi những bộ cánh cửa gỗ có bánh xe lăn, then cài chốt ngang. Ba mặt Đông, Tây, Bắc đều được xây một cửa cuốn, vòm giữa xây to và cao hơn hai vòm bên. Thành Nhà Hồ - một công trình kiến trúc vững chắc, thể hiện rõ vai trò một trung tâm quân sự. Điều đáng ngạc nhiên là một công trình kiến trúc đồ sộ, vững chắc như vậy mà chỉ được xây trong vòng có 3 tháng.
 
Thành Nhà Hồ đã từng được coi là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội nước ta. Dù chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi 7 năm (1400-1407) dưới triều Hồ, nhưng đây là một kiến trúc độc đáo và thực sự là một di sản quý báu, một biểu hiện kiệt xuất của những công trình thành cổ, đồng thời di tích thành Nhà Hồ còn là một danh lam thắng cảnh, một tụ điểm du lịch đẹp mắt, hấp dẫn khách du lịch tới tham quan.
  <vietnamgiapha>


nguồn: http://www.thanhhoatourism.com.vn/index.php?lan=v&id=tiemnang&catalog=43

No comments:

Post a Comment