HỒ QUÝ LY Hồ Quý Ly (chữ Hán: 胡季犛 ; còn có tên là Lê Quý Ly 黎季犛 ; 1336–1407)
là một vị vua Việt Nam , người đã tiến thân từ một đại quan nhà Trần để khởi đầu nhà Hồ của lịch sử Việt Nam . Trong thời gian cầm quyền, ông đã thực hiện nhiều cải cách quan trọng, nhưng bị thất bại trong việc hợp sức toàn dân chống lại cuộc xâm lăng của nhà Minh. Tiểu sử Theo gia phả họ Hồ[1], tổ tiên Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật vốn người Chiết Giang (Trung Quốc), đời Hậu Hán thời Ngũ đại Thập quốc (năm 947-950), tương đương thời Dương Tam Kha của Việt Nam, sang làm Thái thú Diễn Châu và định cư ở hương Bào Đột nay là làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đến đời nhà Lý, có người trong họ lấy công chúa Nguyệt Đích, sinh ra công chúa Nguyệt Đoan. Đời cháu thứ 12 là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại, Thanh Hóa, làm con nuôi tuyên úy Lê Huấn, từ đấy lấy
Lê làm họ mình. Quý Ly là cháu bốn đời của Lê Huấn[2]. Ông có hai người cô đều được vua Trần Minh Tông lấy làm cung phi và đều trở thành mẹ hai vua nhà Trần, do đó ông sớm được đưa vào làm quan trong triều đình nhà Trần. Sự nghiệp Năm 1371, vua Trần Dụ Tông cho Lê Quý Ly làm Trưởng cục Chi hậu. Sau, vua Trần Nghệ Tông đưa ông lên làm Khu mật đại sứ, lại gả em gái là công chúa Huy Ninh. Năm 1395 Trần Nghệ Tông mất, ông được phong làm Phụ chính Thái sư nhiếp chính, tước Trung tuyên Vệ quốc Đại vương, nắm trọn quyền hành trong nước. Tháng 4 năm 1396[3], Hồ Quý Ly phát hành tiền giấy (thông bảo hội sao). Đây là lần đầu trong chính sử Việt a. Cải cách chính trị -hành chính: Cơ sở bảo đảm cho chủ trương cải cách là cải cách chính trị. Cuộc chính biến cuối tháng 2 năm Canh Thìn, 1400, đoạt ngôi vua là một hành động táo bạo và triệt để nhất của Hồ Qúy Ly. Nhưng khi còn là một đại thần ngoại thích, để có thể chi phối triều đình nhà Trần, Hồ Qúy Ly đã cho thay thế những quan chức cao cấp của nhà Trần bằng cách dùng người thân tín do chính ông lựa chọn. Đến khi nắm trọn quyền bính trong tay, nhà Hồ đặt thêm một số quan chức mới, tổ chức các khoa thi, tuyển mộ nhân tài, thay đổi trang phục quan triều. Năm 1397, Hồ Qúy Ly đã tiến hành việc cắt cử đại thần triều đình nắm giữ chức vụ đứng đầu các địa phương. Bải bỏ cấp xã thay bằng huyện. Hồ Qúy Ly dù chủ trương trung ương tập quyền trong tổ chức hành chính, nhưng vẫn duy trì một hệ thống tự quản do dân điều hành nơi các làng xã.
b. Cải cách an ninh - quốc phòng: Hồ Qúy Ly có một hành động tích cực về mặt phòng thủ khi ông chuẩn bị nắm trọn quyền bính, ấy là việc dời đô từ Thăng Long về Tây Đô (Thanh Hoa) năm 1397. Đây là một quan tâm cần thiết để đối phó với cảnh thù trong giặc ngoài trong tình thế nguy hiểm của một cuộc chính biến nhiều bất trắc. Hồ Qúy Ly tăng cường nhiều mạng lưới kiểm soát an ninh hành chính, lập Liêm phòng sứ, để bảo đảm trật tự xã hội. Cảnh giác đối phó với những hoạt động dòm ngó của nhà Minh, mua chuộc và sử dụng quân dân của nhà Minh trong việc do thám bên ngoài lãnh thổ. Từ năm 1375, Hồ Qúy Ly đã bắt tay vào việc cải cách quân đội nhà Trần bằng cách thực hiện sổ quân, bổ sung thanh niên trai tráng vào quân ngũ. Năm 1401, nhà Hồ ra lệnh kiểm tra dân số trong cả nước, định lại quân hiệu, chọn người tín cẩn vào chức vụ chỉ huy, thực hiện quân kỷ nghiêm minh, xây dựng hệ thống phòng thủ, chuyển vận, tăng cường thủy quân, sắm vũ khí và các trang cụ chiến đấu, cải tạo súng Thần cơ sang súng pháo..
c. Cải cách kinh tế - tài chính: Chính sách hạn điền và việc phát hành tiền giấy là những cải cách triệt để và tiến bộ của Hồ Qúy Ly. Ngoài ra, Hồ Qúy Ly còn đề ra một số biện pháp khác về kinh tế như di dân, khai khẩn vùng đất mới, xây dựng hệ thống giao thông, thủy lợi, đổi mới chính sách thuế má .
d. Cải cách văn hóa, tư tưởng, giáo dục, xã hội: Hồ Qúy Ly thể hiện chủ trương phát huy văn hóa dân tộc, đề cao chữ Nôm, đồng thời bài bác tư tưởng nho sĩ Trung Hoa mà giới nho gia lúc bấy giờ ai cũng cho là bất khả xâm phạm. Cuối năm Nhân Thân, 1392, Qúy Ly đã soạn sách Minh Đạo, nhận định rằng Chu Công là Tiên thánh, Khổng Tử là Tiên sư hàm ý hạ thấp vai trò của Khổng Tử, đồng thời nêu lên 4 điểm đáng ngờ trong sách Luận Ngữ. Năm 1395, Qúy Ly biên dịch thiên Vô Dật trong Kinh thư từ chữ Hán ra chữ quốc ngữ để dạy vua. Năm sau, ông làm sách Quốc Ngữ Thi nghĩa (giải thích Kinh thi bằng quốc ngữ), bỏ bài tựa của Chu Tử và viết lại theo ý của mình. Theo đề nghị của Qúy Ly, tháng 5 năm Đinh Sửu, 1397, vua Trần Thuận Tông ban chiếu cải cách giáo dục, mở trường học ở các lộ Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Đông và đặt quan giáo thụ phụ trách, cấp ruộng cho các trường để có hoa lợi làm chi phí cho việc dạy và học ở các địa phương. Cải tổ thi cử, bỏ thi ám tả cổ văn trong kỳ thi Cử nhân, thêm bài thi viết chữ quốc ngữ và làm toán.
e. Về xã hội, Hồ Qúy Ly ban hành chính sách hạn nô. Các vương hầu, qúy tộc, đại thần, quan lại tùy theo phẩm cấp chỉ được giữ lại một số gia nô nhất định, ngoài ra phải sung vào lực lượng quan nô của nhà nước. Chủ nhân có số gia nô bị sung công được trả 5 quan tiền cho một đầu người. Năm 1396, Hồ Qúy Ly ban hành lệnh kiểm tra sư tăng, ai chưa đến tuổi 50 đều phải hoàn tục. Những ai đủ tuổi phải qua một kỳ thi kinh giáo để được thâu nhận hoặc bị sa thải. Quảng tế thự là cơ quan lo việc chữa bệnh cho dân do nhà Hồ lập ra năm 1403, đồng thời cũng lo việc cứu đói, giúp người nghèo, giải quyết việc thiếu ăn bằng cách đưa đi lập nghiệp những nơi xa.
f. Hồ Qúy Ly với việc cải cách một thể chế pháp quyền hiệu lực Muốn củng cố trật tự xã hội và bảo vệ uy quyền một nhà nước quân chủ, Hồ Qúy Ly đã quyết tâm đổi mới việc trị nước bằng chủ trương tăng cường pháp trị (lấy pháp luật mà trị nước khác với nhân trị là lấy lòng nhân mà hành xử quyền bính cai trị dân). Trong sự nghiệp chính trị của Hồ Qúy Ly, điểm nổi bật nhất là việc ông dùng pháp luật để đề ra các chính sách đổi mới, thực hiện các chính sách ấy một cách triệt để bằng cách áp dụng pháp luật trong mọi phạm vi hành xử quyền bính đối với nhân dân. Hồ Qúy Ly là một nhà nho, nhưng ông không đi theo con đường nhân trị của nho gia mà lại chủ trương thực hiện một nền pháp trị triệt để. Thời nhà Lý do chịu ảnh hưởng sâu đậm của đạo Phật là quốc giáo, nên đường lối trị nước thiên về nhân trị.
Chuyển từ thời Trần sang nhà Hồ, nhà nước suy yếu, xã hội hỗn loạn, kỷ cương đảo lộn, với ấn tượng việc Trần Thủ Độ thao túng quyền uy, coi thường đạo lý chưa phai mờ trong tâm trí của nhân dân, Hồ Qúy Ly khi đứng ra nhận trách nhiệm đã muốn tận dụng chính sách pháp trị để khôi phục kỷ cương, tái lập trật tự xã hội, nhằm củng cố uy quyền một nhà nước trung ương tập quyền do ông lãnh đạo. Đó là một động lực thông thường nhưng đã được Hồ Qúy Ly thực hiện một cách khác thường, làm nổi bật nét đặc thù trong sự nghiệp chính trị của ông. Bằng các văn bản pháp luật cụ thể mà sử sách còn giữ lại được cho đến ngày nay, Hồ Qúy Ly, trong vai Tể tướng dưới triều Trần và là vua nhà Hồ, đã ban hành và cho áp dụng từ năm 1395 đến 1400 nhiều chiếu lệnh pháp luật căn bản. Không kể lại những văn bản pháp luật đã nêu trong tổng số 27 chiếu lệnh đã ban hành, có thể làm chứng cho sự quan tâm của Hồ Qúy Ly về mặt pháp trị: Chiếu bỏ hai chữ húy Nguyệt và Nam (cho dùng lại bình thường), tháng 2 năm Ất Dậu, 1395 Chiếu về y phục, đồ dùng của quan dân: cấm các quan không được dùng áo thụng tay. Dân được dùng tại nhà trong ngày chay, ngày giỗ. Đồ dùng không được nạm vàng, sơn son (chỉ dành cho vua), tháng 6 năm Ất Hợi, 1395. Chiếu qui định việc quản lý nhân hộ khẩu: Làm sổ hộ tịch trong cả nước, kê khai dân từ 2 tuổi trở lên, lấy hiện tại làm thực số, không cho phép ghi người vắng mặt, mất tích, bắt trở về nguyên quán những người ở xa tới trú ngụ...
Chống quân Minh: Trong lúc nhà Hồ đang ra sức xây dựng đất nước thì lại có một thế lực khác lại vận động để lật đổ nhà Hồ. Có người tên là Trần Thiêm Bình, tự xưng là con của vua Trần Nghệ Tông, vượt biên giới sang Trung Hoa, tố cáo với nhà Minh việc họ Hồ cướp ngôi nhà Trần. Nhà Minh nhân cớ ấy cũng muốn xuất thân đánh họ Hồ. Hồ Quý Ly biết tin nên tăng cường phòng thủ. Ông cho đắp thành Đa Bang (Ba Vì, Hà Nội), đóng cọc gỗ trong lòng sông Bạch Hạc và chia quân đi trấn giữ các nơi hiểm yếu. Năm 1406, nhà Minh sai tướng cùng 5.000 quân đưa Trần Thiêm Bình về nước. Hồ Quý Ly cho quân chận đánh quân Minh ở Chi Lăng, bắt được Thiêm Bình, đem giết đi rồi một mặt sai sứ sang nhà Minh biện bạch việc Thiêm Bình nói dối, xin theo lệ tiến công như cũ, một mặt cho tăng cường phòng thủ, mộ thêm lính, đóng cư ở phía Nam sông Nhị Hà dài đến hơn 700 dặm. Vua nhà Minh trước đã cho hoạn quan là Nguyễn Toán sang An Nam do thám, biết nước ta phú thịnh, đã có ý đánh lấy, cho nên thường cứ tìm chuyện để lấy cớ dấy binh. Nay nhân việc Hồ Hán Thương giết Thiêm Bình, vua Thành Tổ mới sai Thành Quốc Công là Chu Năng làm đại tướng, Tân Thành Hầu là Trương Phụ, Tây Bình Hầu là Mộc Thạnh, làm tả hữu phó tướng, Phong Thành Hầu là Lý Bân, Vân Dương Bá là Trần Húc làm tả hữu tham tướng, chia binh ra làm hai đạo sang đánh An Nam. Khi quân nhà Minh đến Long Châu thì đại tướng Chu Năng chết, phó tướng Trương Phụ lên thay. Đạo quân của Trương Phụ ở Quảng Tây đi từ đất Bằng Tường sang đánh lấy cửa Ba Lụy, tức Nam Quan bây giờ, rồi tiến sang phía tây bắc về mé sông Cái (70). Còn đạo quân của Mộc Thạnh ở Vân Nam theo đường Mông Tự sang đánh lấy cửa Phú Lĩnh (thuộc tỉnh Tuyên Quang) rồi tiến sang đến sông Thao. Cả hai đạo hội ở Bạch Hạc, đóng đồn ở bờ sông phía bắc. Tuy rằng nhà Hồ trước đã phòng bị, nhưng mà tướng nhà Minh biết rằng người An Nam không phục họ Hồ, bèn làm hịch kể tội họ Hồ, và nói rằng quân Tàu sang là để lập dòng dõi nhà Trần lên, cứu cho dân khỏi sự khổ sở. Trương Phụ sai viết hịch ấy vào những mảnh ván nhỏ bỏ xuống sông, trôi đến đâu, quân sĩ An Nam bắt được, nhiều người không đánh và theo hàng quân Minh; vì thế cho nên quân Minh đi đến đâu đánh được đến đấy. Quân Hồ phải lui về giữ thành Đa Bang. Ở chỗ thành Đa Bang, quân Hồ lập đồn ải liên tiếp ở phía nam sông Thao và sông Cái tức là dọc sông Hồng Hà, rồi đóng cọc cắm ở giữa sông, thuyền bè không đi lại được, có ý để cho quân Minh mỏi mệt rồi sẽ đánh. Thành Đa Bang thất thủ. Quân Minh tiến lên mặt có thành Đa Bang ngăn trở. Mộc Thạnh mới bàn với Trương Phụ rằng: "Mọi nơi đồn An Nam đóng gần bờ sông, quân sang không được, còn thành Đa Bang thì lũy cao hào sâu, nhưng ở đằng trước có bãi cát, quân có thể sang đấy được, vả ta có đồ chiến cụ, nếu đánh thì tất thành ấy phải đổ". Trương Phụ bèn hạ lệnh rằng: "Quân kia trông cậy có thành này, mà ta lập công cũng ở đó; hễ quân sĩ ai lên được trước thì có thưởng to !" Rồi ngay đêm hôm ấy đốt lửa thổi tù và làm hiệu, Trương Phụ, Hoàng Trung đánh mặt tây bắc, Mộc Thạnh, Trần Tuấn đánh mặt đông nam, dùng thang vân thê để lên thành; quân Hồ đánh không được phải lui vào thành, đến sáng hôm sau đào thành cho voi ra đánh. Quân Minh vẽ sư tử trùm lên ngựa rồi xông vào và dùng súng bắn hăng lắm, voi sợ chạy trở vào, quân Minh theo sau voi chạy ồ vào thành, quân Hồ thua to, phải bỏ chạy vào Hoàng Giang1. Quân Minh thừa thế đánh tràn xuống sông Cái, đốt sạch cả các đồn ải, rồi tiến lên đánh lấy Đông Đô (tức là Thăng Long), bắt đàn bà con gái, cướp lấy của cải. Bọn Trương Phụ tích trữ lương thực, đặt quan làm việc, định kế ở lâu dài. Trận Mộc Phàm Giang Qua tháng ba năm đinh hợi (1407) Mộc Thạnh biết rằng con trưởng Hồ Quý Ly là Hồ Nguyên Trừng đóng ở Hoàng Giang, bèn đem thủy lục cùng tiến lên đến hạ trại ở sông Mộc Phàm (ở làng Mộc Phàm, huyện Phú Xuyên tiếp với Hoàng Giang). Hồ Nguyên Trừng đem 30 chiếc thuyền ra đánh bị quân Mộc Thạnh ở hai bên bờ sông đánh ụp lại. Nguyên Trừng thua chạy về cửa Muộn Hải (ở Giao Thủy , Nam Định). Bấy giờ tướng nhà Hồ là Hồ Đỗ và Hồ Xạ cũng bỏ bến Bình Than (ở làng Trần Xá, huyện Chí Linh, Hải Dương) chạy về cửa Muộn Hải để cùng với Nguyên Trừng tìm kế phá giặc; nhưng quân Minh sực đến, lại bỏ chạy ra giữ cửa Đại An (thuộc phủ Nghĩa Hưng bây giờ). Quân Minh ở Muộn Hải phải bệnh, lui về đóng ở bến Hàm Tử, để đợi quân Hồ lên sẽ đánh. Hồ Nguyên Trừng rước Quý Ly và Hán Thương ở Tây Đô ra, rồi đem quân lên Hoàng Giang để chống giữ với giặc. Trận Hàm Tử Quan. Quân Hồ bấy giờ cả thủy và bộ được 7 vạn, giả xưng là 21 vạn, rồi phân quân bộ ra làm hai đạo đi men hai bên sông, quân thủy đi giữa, tiến lên Hàm Tử Quan. Vừa đi đến nơi bị quân Minh hai mặt xông lại mà đánh, quân bộ của nhà Hồ đương không nổi, bỏ chạy cả, phần thì hàng giặc, phần thì chạy xuống xông chết đuối. Còn thủy quân thì chạy thoát được, nhưng bao nhiêu thuyền lương thì đắm mất cả. Bấy giờ có quan An Phủ Sứ Bắc Giang tên là Nguyễn Hy Chu bị quân Minh bắt được, không chịu hàng phải giết. Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương đưa bọn liêu thuộc chạy ra bể, rồi về Thanh Hóa, vào đến Lỗi Giang (tức là Mã Giang) gặp quân Minh đuổi đến, quân Hồ không đánh mà tan. Tướng nhà Hồ là Ngụy Thức thấy thế nguy cấp lắm, bảo Quý Ly rằng: " Nước đã mất, làm ông vua không nên để cho người ta bắt được, xin Bệ Hạ tự đốt mà chết đi còn hay hơn! "Quý Ly giận lắm, bắt Ngụy Thức chém rồi chạy vào Nghệ An. Họ Hồ Chấm Dứt Trương Phụ, Mộc Thạnh biết là Quý Ly chạy vào Nghệ An, bèn đem binh đi đường bộ đuổi theo, lại sai Liễu Thăng đem thủy sư đi đuổi mặt thủy. Quý Ly vào đến cửa Kỳ La (thuộc huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh) bị quân nhà Minh bắt được. Hán Thương và những con cháu họ Hồ đều bị giặc bắt được cả ở núi Cao Vọng. Những quan nhà Hồ, người thì ra hàng, người thì bị bắt, người thì không chịu nhục nhảy xuống sông tự tử.
Nhà Hồ chỉ làm vua được từ năm canh thìn (1400) đến năm đinh hợi (1407), kể vừa 7 năm thì mất. Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương cùng gia quyến bị đưa về Kim Lăng (Trung Hoa, 1407). Trong số người bị bắt, có con trưởng của Hồ Quý Ly là Hồ Nguyên Trừng, một nhà sáng chế ra súng thần công và là tác giả của tác phẩm "Nam Ông Mộc Lục", viết về 31 nhân vật nổi tiếng trong lịch sử của Đại Việt. Sau này, nhờ Hồ Nguyên Trừng dâng lên cho Hoàng đế nhà Minh cách thức chế súng thần công, mà cha con Hồ Quý Ly được thả và sinh sống tại Trung Hoa cho đến chết.
Triều Hồ đã thất bại dù có nhiều cải cách tiến bộ. Những cải cách của Hồ Quý Ly đụng chạm đến hầu hết các giai tầng xã hội, nhất là tầng lớp quý tộc với các phép hạn điền, hạn nô. Vì thế phản ứng của tầng lớp này rất quyết liệt. Những biện pháp kinh tế của Hồ Quý Ly lại chưa có thời gian để trở thành hiện thực nên chưa lôi kéo được quần chúng nhân dân. Bên cạnh đó, việc cướp ngôi nhà Trần đã làm bất bình giới nho sĩ từng thấm nhuần tư tưởng trung quân ái quốc. Do đó nhà Hồ đã không động viên được sự đoàn kết toàn dân, cuộc chiến chống Minh vì thế thất bại. Về trách nhiệm trước sự xâm lăng của nhà Minh Sử gia Trần Trọng Kim trong sách Việt Nam sử lược nêu một giả thiết khác hơn về ông.
Xem công việc của Hồ Quý Ly làm thì không phải là một người tầm thường, nhưng tiếc thay một người có tài kinh tế như thế, mà giả sử cứ giúp nhà Trần cho có thủy chung (trước sau), thì dẫu giặc Minh có thế mạnh đến đâu đi nữa, cũng chưa hầu dễ đã cướp được nước Nam, mà mình lại được cái tiếng thơm để lại nghìn thu. Nhưng vì cái lòng tham xui khiến, hễ đã có thế lực là sinh ra bụng muốn tranh quyền, cướp nước. Bởi thế Hồ Quý Ly mới làm sự thoán đoạt, và nhà Minh mới có cái cớ mà sang đánh lấy nước An Nam. Cũng vì cái cớ ấy, cho nên lòng người mới bỏ họ Hồ mà đem theo giặc, để đến nỗi cha con họ Hồ thua chạy, bị bắt, phải đem thân đi chịu nhục ở đất nước người! Nhưng đấy là cái tội làm hại riêng cho một họ Hồ mà thôi, còn cái tội làm mất nước Nam , thì ai gánh vác cho Quý Ly?
Tuy nhiên, các sử gia hiện đại có ý kiến cho rằng: Dù nhà Hồ thay ngôi nhà Trần hay không thì nhà Minh vẫn xâm lược. Dẫn chiếu từ thời Trần Phế Đế cho thấy khi Trần Duệ Tông tử trận ở Chiêm Thành, Minh Thái Tổ đã định đánh Đại Việt, nhưng do có người can gián (chưa có thời cơ tốt) nên tạm thôi[6]. Tới khi Minh Thái Tổ chết, cháu nội Minh Huệ Đế (Chu Doãn Văn) là ông vua ôn hoà lên thay (1398), Hồ Quý Ly chọn thời điểm lấy ngôi nhà Trần (1400) lúc đó khá phù hợp, khi bản thân ông tuổi đã cao. Nhưng biến cố sau đó nằm ngoài dự tính của ông. Không lâu sau (1403), Doãn Văn bị chú là Chu Lệ cướp ngôi. Chu Lệ - Minh Thành Tổ là một ông vua hiếu chiến như Chu Nguyên Chương và đây cũng có thể xem là một nguyên nhân khiến Đại Ngu bị xâm lược.
Nếu Quý Ly không lấy ngôi nhà Trần thì sau khi ông mất, nhà Trần suy yếu và kiệt quệ sau "hoạ Chiêm Thành" cũng sẽ trở thành tiêu điểm cho "lòng tham" của những vua phương bắc hiếu chiến như Chu Lệ. Vợ và Con: Bà vợ cả không rõ tên, sinh Tả Tướng quốc Hồ Nguyên Trừng Bà thứ 2 là công chúa Huy Ninh của vua Trần Minh Tông. Bà sinh Hồ Thánh Ngẫu, là Khâm Thánh Hoàng Hậu của Trần Thuận Tông, mẹ Thiếu Đế Trần Ẩn. Bà sinh con trai Hồ Hán Thương. Bà thứ 3, không ghi con cái. Ngoài ra ông còn 2 người con là Hồ Uông và Hồ Triệt, không rõ của bà nào.
Thành nhà Hồ: Nhà Hồ tuy nắm quyền trong thời gian ngắn ngủi nhưng đã kịp để lại một công trình kiến trúc quan trọng. Đó là thành nhà Hồ. Tòa thành này được Hồ Quý Ly cho xây từ trước khi đoạt ngôi nhà Trần vào năm 1397. Vào năm ấy, Hồ Quý Ly sai Thượng thư Lại bộ là Đỗ Tỉnh đến động An Tôn (Thanh Hóa) khảo sát thực địa rồi xây thành và cung điện. Thành xây trên địa phận ấy nên được gọi là thành An Tôn. Ngày nay, thành nhà Hồ thuộc hai xã Vinh Long và Vinh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Thành xây xong, Hồ Quý Ly cho đổi trấn Thanh Hóa thành trấn Thanh Đô và bức vua Trần Thuận Tông bỏ Thăng Long dời đô về đấy (1397). Năm sau, Hồ Quý Ly ép vua phải nhường ngôi cho con là Trần án, mới ba tuổi. Trần án lên ngôi tại thành An Tôn. Từ đấy thành An Tôn được xem như kinh đô mới và được đổi tên là Tây Đô. Vào năm 1400, sau khi phế Trần án, lên làm vua, Hồ Quý Ly cũng đóng đô ở đấy. Tây Đô được đổi tên thành Quốc Đô. Cũng từ đây Hồ Quý Ly điều hành đất nước, đưa ra những chương trình cải cách của mình. Các khoa thi năm Canh Thìn (1400), năm ất Dậu (1400) đều được tổ chức tại đây. Cũng từ đây, Hồ Hán Thương cầm đầu đại binh xuất phát từ cửa chính Nam lên đường tấn công Champa, lấy được hai đất Chiêm Động và Cổ Lũy (1402). Cuộc chiến kháng Minh của nhà Hồ thất bại, quân Minh vào chiếm lấy Quốc Đô, đổi tên Quốc Đô thành phủ Thanh Hóa. Đến sau khi Lê Lợi chiến thắng quân Minh, lên ngôi vua, đóng đô tại Đông Kinh (Thăng Long), thành Thanh Hóa được trở lại tên cũ của thời nhà Trần là Tây Đô. Vào thờ nhà Nguyễn, nhiều địa danh tỉnh, huyện, thành, l?sở được thay đổi để phù hợp với chế độ chính trị của triều Nguyễn. Thành Thăng Long được đổi thành tỉnh Hà Nội, thành Tây Đô lấy tên của làng ở phía cửa Tây của thành là Tây Nhai. Đến đời Minh Mạng (1820-1840) lại đổi thành Tây Giai.
Tên thành nhà Hồ mới xuất hiện sau này, từ khi triều đại nhà Hồ được xem là triều đại chính thống trong lịch sử. Theo mô tả của các sách sử cũ thì trong thành nhà Hồ đã từng có nhiều công trình kiến trúc như điện Hoàng Nguyên, cung Diên Thọ, cung Phù Cực, Thái Miếu... Nhưng hiện nay không còn một dấu tích gì đáng kể. Chỉ còn tồn tại bức tường thành đồ sộ, chu vi dài tới hơn 3 km, cao trung bình 5-6m. Thành nhà Hồ được xây với một bình đồ gần vuông. Chiều dài (Bắc và Nam ) có 90m, chiều rộng (Đông và Tây) hơn 700m. Bốn mặt thành đều còn tương đối đủ. Mặt ngoài ốp đá, phía trong là tường đất đắp thoải xuống để quân lính di chuyển dễ dàng. Nét đặc sắc của các bức tường thành này là phần ốp bằng những khối đá xanh ở bên ngoài. Các khối đá được đẽo vuông vức, phần nhiều có chiều dài là 1,4m, rộng 0,7m và dày 1m. Riêng ở cửa Tây có những khối đá rất to, dài đến 5,1m, cao và dày 1,2m, nặng hơn 15 tấn. Các khối đá được xếp theo hình chữ công chồng lên nhau, tạo nên độ dốc thẳng đứng ở mặt ngoài, gây trở ngại đến mức tối đa cho kẻ địch muốn vượt thành. Đá được lấy ở dãy núi đá cách thành về phía Nam chừng vài cây số. Đá được chế tác, đẽo gọt tại đây rồi mới được vận chuyển về thành. Người xưa đã vận chuyển và chồng những khối đá to lớn và nặng nề ấy như thế nào? Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những hòn bi bằng đá ở quanh thành và đưa ra giả thuyết là người xưa có thể sử dụng các hòn bi đá này để di chuyển đá. Khối đá được đặt trên các hòn bi đá, người vận chuyển dùng đòn bẩy để bẩy cho đá trượt trên các hòn bi ấy. Sau khi đã trượt qua một số hòn, người ta lại đem bi đặt đón phía trước cho khối đá tiếp tục trượt qua. Và cứ thế, khối đá nhích lần lần đến nơi. Ngoài ra còn có giả thuyết cho là đá được vận chuyển bằng những chiếc cộ, tức là loại xe bốn bánh bằng gỗ, bên trên có sàn để hàng hóa. Còn việc xếp chồng các khối đá lên nhau theo hình chữ công lại được phối hợp với việc đắp tường đất bên trong. Tường đất được đắp thành những con đường thoai thoải để bẩy đá lên được dễ dàng, sau đó các khối đá được xếp, lớp sau chồng lên lớp trước. Công việc này rất nặng nhọc và đã gây ra tai nạn. Người ta đã tìm thấy một bộ xương người ở một chỗ tường đá lở. Hẳn là người xấu số ấy bị đè giữa hai khối mà đồng đội không thể nào lấy thây ra được vì khối đá quá nặng. Trước kia, trên mặt thành có phần gạch xây lên bên trên mặt đá theo lệnh của Hồ Hán Thương (1401), nhưng ngày nay không còn nữa. Nhiều đoạn mặt thành bị phá lấy đá, chiều cao chỉ còn 0,5m. Có đoạn mất hẳn. Thành có bốn cửa Đông, Tây, Nam, Bắc. Mỗi cửa đều ở vị trí chính giữa các mặt thành và được xây thành vòm cuốn bằng đá khối, kích thước rất lớn. Riêng cửa Nam là cửa chính, lại có đến ba vòm cuốn, vòm giữa to hơn hai vòm hai bên. Cửa Nam là cửa lớn nhất, rộng 38m, coa hơn 10m, xây nhô ra ngoài tường thành 4m. Cả ba vòm cuốn đều rộng 5,8m. Vòm cửa giữa cao 8,5m, hai vòm bên cao 7,8m. Phía trên cửa Nam có lát đá bằng phẳng, nguyên là nền của lầu cửa, nơi vua ngự để duyệt binh hoặc chủ trì các nghi lễ. Các cửa Đông, Tây và Bắc rộng 5,8m, sâu khoảng hơn 13m, cao 5,4m. Mỗi vòm cuốn đều có hai cánh cửa gỗ nặng, dầy và chắc. Dấu vết của các cánh cửa ấy là những lỗ đục vào đá và những lỗ cối lắp ngưỡng cửa. Có thể giải thích cách xây các vòm cuốn như sau: Trước hết, đất được đắp thành hình vòm cửa, sau đó đá mới được xếp lên. Đá ghép vòm được đẽo theo hình múi bưởi. Các chất kết dính được miết vào các khe hở. Xây xong, phần đất bên trong được moi ra để lộ vòm cuốn. Thành được bao quanh bốn mặt bởi một con hào rộng đến 50m, nhưng ngày nay nhiều chỗ đã bị lấp. Đường qua hào chạy thẳng vào bốn cửa thành được xây cống gạch. Hiện nay ở cửa Tây còn loại cống gạch này. Thành còn có một vòng tre gai bao quanh về phía Tây và phía Bắc, còn phía Nam và Đông có một lũy đất cách vòng hào khoảng 1km. Lũy khá lớn, chạy suốt hai phía mặt thành. Tất cả tạo thành một hệ thống tuyến phòng ngự tiền duyên, bảo vệ cho thành. Thành nhà Hồ được nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa vào đợt đầu tiên, năm 1962. Thành được quy định làm hai khu vực: Khu vực bất khả xâm phạm là toàn bộ bức thành. Tuy đã được quy định bằng văn bản, nhưng khu tích này vẫn bị xâm phạm. Cần thiết phải có biện pháp bảo vệ di sản văn hóa này tích cực hơn.
http://www.vietnamgiapha.com/XemChiTietTungNguoi/1079/18/H_26_237891_3B+Qu_FD+Ly.html
No comments:
Post a Comment