Menu

Tuesday, January 31, 2012

giới thiệu về Nam Ông Mộng Lục - Hồ Nguyên Trừng

Nam Ông mộng lục
Sách không chia số quyển, trong mục lục có đề 31 thiên mục

Tác giả: Hồ Nguyên Trừng
Tên khác
+ Lê Trừng
+ Mạnh Nguyên
+ Nam Ông
 


Tác giả Hồ Nguyên Trừng - 胡元澄 còn gọi là Lê Trừng, tự là Mạnh Nguyên, hiệu Nam Ông. Ông là con trai của Hồ Quý Ly - 胡季犛 , anh của Hồ Hán Thương, (không rõ năm sinh, năm mất).
Chính ông có ý nhường ngôi cho em Hồ Hán Thương, nhưng anh em vẫn có điều bất hoà. Hồ Quý Ly từng khuyên anh em ông:
“Thiên giả phú, địa giả tải,
Huynh đệ nhị nhân như hà bất tương ái?
Ô hô! ai tai hề ca khảng khái”.
Dịch:
Trời thì che, đất thì chở,
Anh em hai người sao chẳng niềm nở.
Ô hô! Xót thay chừ lời ca trăn trở!
(Vì biết chuyện và đem lời răn trên đây truyền ra ngoài cho thiên hạ biết, viên cận thần Nguyễn Ông Kiều bị Qu ý Ly giết).
Trước đó, khi phụ thân của ông chưa lật đổ nhà Trần, dưới triều Trần Thuận Đế, ông phụ trách Thượng Lân tự - một quan thự chuyên xét xử việc ngục tụng mà các đời trước gọi là Viện Đăng văn kiểm pháp. Năm K Mão (1399), đời Trần Thiếu Đế, ông giữ chức Tư đồ.
Nhà Hồ được dựng lên, ông giữ chức Tả tướng quốc. Mặc dù bề ngoài tỏ ý thần phục nhà Minh, nhưng ông, cha và em ông vẫn nghĩ cách chống đối, củng cố chủ quyền độc lập. Thời thế không thuận lợi, đến ngày 12-5 Âm lịch năm Đinh Hợi (1407), cả ba cha con ông và người cháu là Hồ Nhuế (con Hồ Hán Thương) đều bị quân Minh bắt giải về Kim Lăng (Nam Kinh, Trung Quốc).
Minh Anh Tông phong cho ông chức Tả thị lang bộ Công, Chính nghị đại phu tư trị doãn. Lại nữa, vua Minh không thừa nhận gia đình ông là dòng dõi Ngu Thuấn, bắt buộc phải đổi họ khác, ông đổi lại là Lê Trừng.
Sống cảnh lưu đày nơi đất khách, ông có sáng chế súng thần công, loại trọng pháo khiến Trung Quốc được tiếng là phát minh khí giới chiến tranh.
Nam Ông mộng lục (1 cuốn) do ông soạn tại Trung Quốc (tên tác giả ghi trên sách: Lê Trừng) in trong bộ tùng thư Hàm phân lâu bí kíp, t. IX, in ảnh theo bản viết tay cũ từ đời Minh .
Sách không chia số quyển, trong mục lục có đề 31 thiên mục, nhưng kiểm lại trong sách như sau đây, chỉ có 28 thiên mục mà thôi; thiếu ba mục, sau mục 23 là: Mệnh thông thi triệu, Thi chí công danh; Tiểu thi lệ cú. Mỗi mục nói một chuyện, đã xảy ra ở Việt Nam về đời Lý, Trần, Mục lục của sách nêu rõ các đề mục sau đây:
  1. Nghệ vương thủy mạt (Đầu đuôi truyện Trần Nghệ Tông)
  2. Trúc Lâm thị tịch (Nói về sự băng hà của vua Trần Nhân Tông, hiệu Trúc Lâm).
  3. Tổ linh định mệnh (Linh hồn của ông là Trần Nhân Tông quyết định ngôi vua cho cháu là Trần Minh Tông)
  4. Đức tất hữu vị (Việc vua Minh Tông lên làm vua)
  5. Phụ đức trinh minh (Việc vợ vua Duệ Tông đi tu)
  6. Văn táng khí tuyệt (Nghe tin cha là Trần Thái Tông mất cũng tắt thở).
  7. Văn Trịnh ngạnh trực (Chuyện Chu Văn An tính thẳng)
  8. Y thiện dụng tâm (Chuyện thầy lang khéo dùng thì giờ chữa bệnh)
  9. Dũng lực thần dị (Chuyện Lê Phụng Hiểu dùng sức mạnh lạ thường phá giặc).
  10. Phu thê tử tiết (Chuyện hai vợ chồng Ngô Miễn cùng tử tiết dưới áp lực quân Minh, đời Vĩnh Lạc).
  11. Tăng đạo thần thông (Việc thi tài chống yêu quái giữa Phật tăng Giác Hải và đạo sĩ Thông Huyền).
  12. Tấu chương minh nghiệm (Tờ tâu lên thiên đình có ứng nghiệm)
  13.  Áp lãng chân nhân (Chuyện đạo sĩ họ La đem pháp thuật dẹp sóng biển cho vua Lý, con cháu của người ấy tên là La Tu).
  14. Minh Không thần dị (Chuyện nhà sư Nguyễn Minh Không thần hoá lạ thường, vẫn ở Giáo Thủy mà chữa được bệnh vua Lý, tức là đức thánh Khổng Lộ ở chùa Keo Nam Hà) (?)
  15. Nhập mộng liệu bệnh (Chuyện nhà sư Quán Viên chữa mắt cho Trần Anh Tông trong giấc mộng)
  16. Ni sư đức hạnh (Chuyện bà sư tu đắc đạo)
  17. Cảm khích đồ hành (Chuyện Trần Đạo Tái hăng hái đi bộ)
  18. Điệp tự thi cách (Nói về bài thơ lối điệp tự của Trần Thánh Tông)
  19. Thi ý thanh tân (Phẩm bình thơ hay của Trần Nhân Tông trong tập Đại Hương Hải ấn).
  20. Trung trực thiện chung (Chuyện hai anh em Phạm Ngộ, Phạm Mại trung thực mà giữ được trọn vẹn tiết tháo. Phạm Mại có Kính Khê thi tập).
  21. Thi phúng trung gián (Chuyện Trần Nguyên Đán làm thơ can vua Nghệ Tông, không được bỏ về. Trần Nguyên Đán giỏi về tính lịch, có sách Bách thế thông kỷ thư).
  22. Thi dụng tiền nhân cảnh cứ (Làm thơ lại dùng câu thơ cũ của thi nhân mà khen thi nhân ấy; chuyện Nguyễn Trung Ngạn làm thơ viếng Trần Toại hiệu Sầm Lâu, tác giả Sầm Lâu tập)
  23. Thi ngôn tự phụ (Lời thơ khoe khoang của Nguyễn Trung Ngạn)
  24. Thi tửu kinh nhân (Chuyện Hồ Tông Thốc uống rượu khỏe, làm thơ nhiều)
  25. Thi triệu dư khương (Chuyện Nguyễn Thánh Huấn là ông ngoại của cha Lê Trừng, tức ông ngoại Hồ Quý Ly giỏi thơ, gọi là tổ thơ phương Nam, làm bài Điền viên mạn hứng có ảnh hưởng đến gia thế Lê Trừng)
  26. Thi xứng tướng chức (Thơ của hai anh em Trần Nghệ Tông tiễn sứ Nguyên, làm khi chưa lên làm vua).
  27. Thi thán chí quân (Nói Trần Nguyên Đán làm thơ tự thán để can vua).
  28. Quí khách tương hoan (Nói việc tướng Mạc Ký, người Đông Triều làm thơ xướng họa khi đi tiên sứ Nguyên là Hoàng Thường).
Trước 28 mục kể trên có các bài tựa của Hồ Huỳnh, một quan thượng thư đồng triều với Lê Trừng, viết năm Chính Thống thứ 5 (1440); thứ đến bài tựa của tác giả đề năm Chính Thống thứ ba (1438), đề rõ Giao Nam Lê Trừng Mạnh Nguyên tự. Cuối sách có bài hận tự của Tống Chương người Việt Nam, làm quan triều Minh, viết năm Chính Thống thứ bảy (1442) cũng đề rõ Giao Nam Tống Chương thư. Sau cùng là bài bạt của Tôn Dục Tú, viết Năm Canh Thân (1440) nói về việc xuất bản sách này.
Bài tựa Nam Ông mộng lục do chính ông viết như sau:
Bản dịch:
Sách Luận ngữ từng nói: “Trong cái xóm mười nhà, thế nào cũng có người trung tín như Khâu này vậy”, huống hồ nhân vật cõi Nam Giao từ xưa đã đông đúc, lẽ nào vì nơi hẻo lánh mà vội cho là không có nhân tài! Trong lời nói, việc làm, trong tài năng của người xưa có nhiều điều khả thủ, chỉ vì qua cơn binh lửa, sách vở cháy sạch, thành ra những điều đó đều bị mất mát cả, không còn được ai nghe, há chẳng đáng tiếc lắm sao? Nghĩ tới điểm này, tôi thường tìm ghi những việc cũ, nhưng thấy mất mát gần hết, trong trăm phần chỉ còn được một hai; bèn góp lại thành một tập sách đặt tên là Nam Ông mộng lục, phòng khi có người đọc tới! Một là để biểu dương các mẫu việc thiện của người xưa, hai là để cung cấp điều mới lạ cho người quân tử, tuy đóng khung trong vòng truyện vặt, nhưng cũng là để góp vui những lúc vui chuyện. “Có kẻ hỏi tôi rằng: “Những người ông chép đều là người thiện, vậy thì trong các truyện bình sinh ông nghe thấy, lại chẳng có chuyện nào bất thiện ư?” Tôi trả lời họ rằng: “Chuyện thiện tôi rất mê nghe, nên có thể nhớ được, còn chuyện bất thiện thì không phải không có, chẳng qua tôi không nhớ đấy thôi”. Họ lại hỏi: “Sách lấy tên là mộng, ý nghĩa ở chỗ nào?” Tôi trả lời: “Nhân vật trong sách, xưa kia rất phong phú, chỉ vì đời thay việc đổi, dấu tích hầu như không để lại, thành ra còn mỗi một mình tôi biết chuyện và kể lại mà thôi, thế không phải mộng là gì? Các bậc đại nhân quân tử có thấu cho chăng? Còn hai tiếng Nam Ông thì chính là tên chữ, của Trừng tôi vậy”.

http://www.vietgle.vn/trithucviet/detail.aspx?pid=5153&key=H%E1%BB%93%20Nguy%C3%AAn%20Tr%E1%BB%ABng&type=A0

No comments:

Post a Comment