Menu

Tuesday, January 31, 2012

Hồ Nguyên Trừng (1374 – 1446)

Hồ Nguyên Trừng (1374 – 1446) 



Hồ Nguyên Trừng (1374 – 1446) là con trai cả của Hồ Quý Ly. Tháng 11.1394 lần đầu tiên sử sách nhắc đến Nguyên Trừng với việc bổ nhiệm ông làm Phán sư tự dưới triều đình của Thái thượng hoàng Nghệ Tông. Tháng 6.1399 Nguyên Trừng lãnh chức Tư đồ. Tháng 2 năm 1400 Hồ Quý Ly tiếm ngôi nhà Trần, trong lòng muốn lập con thứ Hồ Hán Thương (là cháu ngoại Trần Minh Tông) làm Thái tử, bèn thăm dò ý Nguyên trừng bằng cách ra câu đối: "Thử nhất quyển kỳ thạch, hữu thì vi vân vũ dĩ nhuận sinh dân" (Hòn đá lạ bằng nắm tay này, có lúc làm mây làm mưa để nhuần thấm sinh dân). Nguyên Trừng khiêm tốn trả lời, ý nói không màng ngôi cao, chỉ mong được phụng sự đất nước: "Giá tam thốn tiểu tùng, tha nhật tác đống tác lương dĩ phù xã tắc". (Cây thông nhỏ mới ba tấc kia, ngày sau làm rường cột để chống nâng xã tắc). Tháng 12 năm 1400 Hồ Quý Ly tự xưng Thái thượng hoàng và nhường ngôi cho Hán Thương. Hồ Nguyên Trừng lãnh chức Tả tướng quốc.
Cuối năm 1405, nguy cơ xâm lăng của nhà Minh ngày càng rõ rệt. Khi nghị bàn quốc sự các quan trong triều chia thành hai phái đánh và hòa. Hòa tức là chấp nhận sức ép của Bắc triều, cắt đất, cống nộp từ con người đến sản vật. Hồ Nguyên Trừng nói: “Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo thôi”. Hồ Quý Ly rất tâm đắc ý chí của Nguyên Trừng nên đã thưởng cho Trừng chiếc hộp đựng trầu bằng vàng.
Giữa năm 1406 Hồ Nguyên Trừng thống lĩnh binh mã cự 10 vạn quân Minh từ Quảng Tây đánh sang. Trận đầu ông thất bại ở khu vực Đáp Cầu Bắc Ninh ngày nay, vì khinh quân địch ít. Sau đó ông cũng đuổi được chúng ra khỏi bờ cõi. Cuối năm 1406, đợt xâm lược mới của nhà Minh có quân số lên tới 80 vạn. Tả tướng quốc Nguyên Trừng chỉ huy một cánh quân tiên phong dọc sông Cái.
Thất bại này nối thất bại kia vì giặc mạnh lại biết dùng kế ly gián, chia rẽ họ Hồ với quân tướng và dân chúng. Giữa năm 1407, toàn bộ gia tộc họ Hồ, từ Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương, Hồ Nguyên Trừng đến con cháu đều bị bắt sống và giải về Kim Lăng, Trung Quốc.
Trên đây là tóm tắt gốc tích và hành trạng trong nước của Hồ Nguyên Trừng theo Đại Việt sử ký toàn thư, NXB KHXH Hà Nội 1993. Sách này còn ghi năm 1411 Hồ Ngạn Thần theo lệnh vua Trùng Quang Trần Quí Khoáng đến Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay) để cầu phong. Vua Minh sai Hồ Nguyên Trừng gặp Ngạn Thần thu thập tin tức Giao Chỉ.
Đến Khâm định Việt sử thông giám cương mục, NXB Hà Nội 1998, ngoài nội dung cũ, liên quan đến Hồ Nguyên Trừng còn có các chi tiết: Vua nhà Minh ngự điện nhận tù binh và hỏi Quý Ly rằng: "Giết vua, cướp nước, như thế có phải là đạo người bầy tôi không?". Quý Ly không trả lời được, bèn giao cả xuống giam vào ngục tù, chỉ tha cho con là Trừng, cháu là Nhuế. Sau, Quý Ly ở trong ngục được tha ra, bắt đi thú thủ ở Quảng Tây; Trừng vì lành nghề chế binh khí, dâng phép chế súng lên vua Minh, nên được tha ra để dùng. Lời cẩn án - Sử cũ chép: "Khi Quý Ly đến Kim Lăng, vua nhà Minh giả vờ trao cho chức tham chính, sai người hộ tống đến nơi làm việc, rồi giết chết ở dọc đường". Có lẽ nào đánh bắt được người đầu sỏ của giặc, không đem làm tội một cách đường hoàng mà lại phải dùng kế giả dối để giết bao giờ? Thật là vô lý! Nay theo sách Minh sử kỷ sự cải chính lại.
Giai đoạn sau cuộc đời Hồ Nguyên Trừng không được sử sách chính thống Việt Nam nhắc đến. Nhiều văn bản Trung Quốc còn lưu lại đến ngày nay đều thống nhất dùng họ Lê cho Hồ Nguyên Trừng và con cháu ông, đây là họ của Lê Huấn, cha nuôi Hồ Quý Ly. Để tiện bề theo dõi, trở xuống xin được đổi lại họ Hồ trong các đoạn dịch.
Theo Minh Sử[1]: Vào thời Minh Thành tổ, Giao Chỉ được bình định, kỹ thuật (chế tạo) thần cơ thương pháo được thu dung, thành lập và huấn luyện một binh đoàn trang bị súng thần cơ.
Kết nối dữ kiện trên với tài liệu của Tôn Lai Thần[2] (Sun Laichen) sẽ hiện ra chân dung nhà khoa học quân sự Hồ Nguyên Trừng: Theo lệnh vua Minh, các tù binh Đại Việt biết chế tạo vũ khí như Hỏa súng, Đoạn tiễn, Thần tiễn, Thuốc súng; đã bị áp giải đến Nam Kinh cùng với nhiều thợ thủ công các loại, tổng cộng lên đến khoảng 17.000 người. Trong số này có Hồ Nguyên Trừng. Đại Việt sử ký toàn thư cũng đặc biệt ghi nhận năm 1407 Hồ Nguyên Trừng đã chế tạo nhiều súng ống và tàu chiến để chống lại quân Minh xâm lược. Việc ngài Tả tướng quốc Nguyên Trừng nắm kỹ năng chế tạo vũ khí cầm tay cho thấy tầm quan trọng mà Đại Việt gửi gắm ở kỹ nghệ sản xuất thuốc súng cũng như cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa Đại Việt và các nước láng giềng, trước hết là với Trung Hoa và Chiêm Thành. Thú vị là sự tinh thông ấy đã thay đổi vận mệnh Hồ Nguyên Trừng tại Trung Hoa…. Nguyên trừng được tha bổng và nhậm một chức quan thuộc Công bộ. Ông chịu trách nhiệm chế tạo hỏa súng, hỏa tiễn và thuốc súng trong Binh trượng cục (Cục chế tạo vũ khí) và rồi được thăng chức Thượng thư bộ Công (tương đương hàm bộ trưởng ngày nay – ND)… Theo một số sách vở Trung Hoa (Minh sử cảo), triều Minh khi tế thần súng cũng thường hiến cúng Hồ Nguyên Trừng. 73 tuổi, Hồ Nguyên Trừng mất, con ông (Lê Thúc Lâm – ND) đã thay ông tiếp tục chế tạo vũ khí cho nhà Minh đến khi về hưu năm 1470 ở tuổi 70.
Phần lớn ghi chép ở Việt Nam ngày nay cho rằng Hồ Nguyên Trừng làm quan triều Minh đến tam phẩm (Công bộ tả thị lang, thứ trưởng). Thực ra theo bộ Minh sử đầy đủ đã xuất bản ở Đài Loan, năm 1445 Hồ Nguyên Trừng được thăng chức nhị phẩm (Công bộ thượng thư)[3]. Điều này phù hợp với nghiên cứu của Tôn Lai Thần. Có lẽ làm “bộ trưởng” chưa được một năm thì họ Hồ mất nên tài liệu Việt Nam sơ suất. Hữu thị lang Hồ Thúc Lâm, con Hồ Nguyên Trừng đến tuổi hưu trí vẫn được triều Minh lưu dụng. Thậm chí đến cháu nội ông là Hồ Thế Vinh, năm 1469 cũng được tuyển làm Trung thư xá nhân tại Công bộ.
Hiện trên internet có rất nhiều trang đề cặp đến nơi yên nghỉ Hồ Nguyên Trừng. Chẳng hạn khảo biện “Hỏa long kinh”[4], thuộc chủ đề Trung Quốc lịch sử văn vật, tác giả Lý Bân, Đại học Thanh Hoa xuất bản 1.1.2002 viết: Tháng sáu, năm Chính thống thứ 10 (1445) thăng (Hồ Nguyên Trừng) làm Thượng thư bộ công, giữ việc nội phủ, tháng 7 năm sau mất, hưởng thọ 73 tuổi, an táng tại vùng núi phía tây Bắc Kinh, sườn núi Ngọc Đài, thôn Nam An Hà.
Từ những dữ kiện trên đây, có thể khẳng định Hồ Nguyên Trừng và con cháu ông là những công trình sư có đóng góp nghiên cứu và thực nghiệm khoa học quân sự lớn lao cho triều Minh. Phải chăng chính công tác “gián điệp” trong quá trình xâm lăng Đại Việt đầu thế kỷ 15, nhà Minh đã nhìn thấy “mỏ vàng” nhân lực trí lực đồ sộ ở nước Nam. Cướp đất và ra sức tiêu diệt văn hóa chưa đủ, họ còn bắt đi 17.000 trái tim khối óc người Việt đem về để kiến thiết Trung Quốc. Nguyễn An, nhân vật tham gia thiết kế và xây dựng Tử Cấm Thành, và Hồ Nguyên Trừng là những cái tên chói sáng trong số tù nhân kia. Họ bất tử vì tài năng kiệt xuất, lưu truyền thiên cổ.

Thác bản văn bia[5] nói về việc xây dựng chùa Tú Phong do Hồ Nguyên Trừng soạn năm 1443. Chùa Tú Phong và mộ Hồ Nguyên Trừng cùng nằm trong thôn Nam An Hà, xã Bắc An Hà, khu Hải Điện, TP Bắc Kinh.
Cuối đời, sống trong nhà tù lớn mang tên Trung Hoa, dù chức cao bổng hậu Hồ Nguyên Trừng vẫn ngóng về quê hương với nỗi niềm sâu nặng. Phải chăng đấy là lý do Nguyên Trừng lấy bút hiệu Nam Ông (ông già nước Nam) và viết quyển “Nam Ông mộng lục” bất hủ.
Trước tác gồm 31 phần, do Hồ Huỳnh, Thượng thư bộ Lễ Minh triều đề từ năm 1440, có cả hậu tự năm 1442 của Tống Chương. Ở lời nói đầu, Hồ Nguyên Trừng bảo: Trong xóm mười nhà thể nào cũng có người tín nghĩa như Khổng Tử, huống hồ nhân vật nước Nam không kể hết. Thời gian và chiến tranh làm sách vở tiêu tán hết, nên ông phải viết lưu lại cho đời. Bằng nỗi niềm thương nhớ cố quốc, hồi tưởng năm tháng đã qua, Hồ Nguyên Trừng ngỡ cuộc đời là một giấc mộng dài. Ông giải thích chữ “mộng”[6]: Những nhân vật trong sách, một thời phồn hoa, rồi thời cuộc biến đổi không còn để lại vết tích, chỉ còn một mình tôi biết được và kể ra, như vậy chẳng phải mộng là gì! Qua “Nam ông mộng lục” người ta phần nào hình dung được đất nước con người Việt Nam cách đây hơn 600 năm. Các mảng đời sống, tín ngưỡng, phong tục, lề thói… rất sinh động và chân thật. Hồ Huỳnh nhận định: "Văn họ Hồ ngắn gọn mà nghiêm trang, cẩn mật, cao nhã mà uyên bác, theo tình kể lại, theo nghĩa đặt lời... Ca ngợi sự tiết nghĩa thì bừng bừng cảm khái, có thể uốn nắn phong tục, biểu dương trước thuật thì siêu thoát, thanh tân, có thể nuôi dưỡng tính tình...".
Gần đây ở ngôi làng Nam An Hà, cách Bắc Kinh 30km về phía tây, nơi có mộ chí Hồ Nguyên Trừng và con cháu ông đang ồn ào vụ kiện giải tỏa đất đai mồ mả để làm trường đua ngựa[7]. Không rõ khu vực giải tỏa có chạm đến nơi an nghỉ của Hồ Nguyên Trừng không. Cũng tra internet tôi biết gần đó hiện còn di chỉ Hỏa khí doanh (doanh trại chế tác/thử nghiệm vũ khí), phải chăng là nơi ba đời họ Hồ từng làm việc.
Trang viết biên khảo nhỏ này muốn đưa đến đông đảo người đọc những chi tiết có chọn lọc, về thân thế và sự nghiệp người Việt kiều từng giữ chức bộ trưởng, trong triều đình một cường quốc của thế giới cách nay hơn nửa thiên niên kỷ. Dám mong một ngày nào đó, nếu lăng Hồ Nguyên Trừng bị giải tỏa, di cốt ông sẽ được nhân dân Việt Nam đón về cải táng trong thành đá Tây Đô, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Tòa thành ấy còn gọi là Thành nhà Hồ, vẫn ngạo nghễ với thời gian, ghi dấu nỗ lực chiến đấu chống ngoại xâm ngoan cường của ba cha con Hồ Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng và Hồ Hán Thương.
Thảo Điền 17.11.2007
Hồ Nguyên Trừng (1374-1446) Nhà chính trị và kỹ sư của 3 triều Trần, Hồ, Minh. Được coi là một trong các vị tổ đúc súng hoả công ở Việt Nam và Trung quốc.
Hồ Nguyên Trừng (胡元澄), bị đổi lại là Lê Trừng, tự Mạnh Nguyên, hiệu Nam Ông, là con trai cả của Hồ Quý Ly, anh của Hồ Hán Thương.
Dưới triều Trần Thuận đế, ông phụ trách Thượng Lân tự, một quan thự chuyên xét xử việc ngục tụng mà các đời trước gọi là Viện Đăng văn kiểm pháp. Năm Kỷ Mão 1399, đời Trần Thiếu đế, ông giữ chức Tư đồ. Sau khi Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần, Hồ Nguyên Trừng được phong chức Tả tướng quốc.
Thất bại trong cuộc chiến chống quân nhà Minh, ông cùng cha bị bắt ở Hà Tĩnh và giải về Trung Quốc năm 1407. Do có tài về chế tạo vũ khí nên được trọng dụng, làm quan triều Minh đến chức Công bộ Tả Thị lang năm 1438. Theo Minh thực lục thì năm 1428 đã giữ chức Công bộ Hữu Thị lang (tam phẩm) và được hậu đãi "ăn lương toàn bằng gạo".
Trương Tú Dân, một nhà sử học Tàu chuyên nghiên cứu về Việt Nam đã viết về Hồ Nguyên Trừng trong Minh Đại Giao Chỉ Nhân Tại Trung Quốc Chi Cống Hiến (Sự đóng góp cho Trung Quốc của người Giao Chỉ đời Minh), Minh Sử Luận Tùng, Đài Bắc 1992. Theo Trương thì Minh sử chép trong cuộc bình Giao Chỉ, nhà Minh đã bắt được súng thần, pháo thần của Giao Chỉ, được coi là loại vũ khí nhất thiên hạ mà Trung Quốc chưa từng có. Vì thế nên Minh Thành Tổ đã cho Hồ Nguyên Trừng làm quan đến chức Thượng Thư bộ Công. Vũ khí của Hồ Nguyên Trừng được mô tả "Súng thần cơ có được gần đây, dùng sắt làm tên, bắn đi bằng lửa, đi xa ngoài trăm bước, nhanh chóng kỳ diệu như thần, nghe thấy tiếng là lửa đã đến. Thời Vĩnh Lạc (1403-1424) khi bình Giao Chỉ, thứ mà người Giao Chỉ chế tạo càng tinh xảo""Súng Giao Chỉ là nhất thiên hạ". Cách chế tạo vũ khí được mô tả "Dùng đồng đỏ ở mức độ giữa sống và chín, nếu dùng sắt thì sắt xây dựng mềm hơn, sắt tây kém hơn. To nhỏ khác nhau, thứ lớn dùng xe, thứ nhỏ dùng giá, dùng bệ, vác vai. Thứ lớn lợi cho phòng thủ, thứ nhỏ lợi cho chiến đấu, tuỳ nghi mà sử dụng, là thứ vũ khí chủ yếu khi hành quân". Nhà Minh dùng súng Giao Chỉ khi đánh với Mông Cổ, sử Tàu ghi "Khi Thành Tổ thân chinh Mạc Bắc [Mông Cổ] dùng súng thần An Nam vừa bắt được, kẻ địch một người tiến lên, lại hai người nữa chết theo, đều trúng súng (đạn) mà chết". Trận đồ kỷ yếu do Tào Phi vẽ đời Thiên Khải (1621-1627) có ghi chú "Đây là thứ lấy được khi bình An Nam, dưới tiễn có lẫy gỗ, và đặt các thứ đạn chì, chỗ kỳ diệu là dùng gỗ thiết mộc, nặng mà mạnh, một phát đi xa ba trăm bước. Hình dạng giống tiễn, không giống súng, nên là một loại hoả tiễn của Giao Chỉ". Minh sử còn chép "Trừng [Hồ Nguyên Trừng] dâng cách chế tạo súng thần", "Trừng chuyên đôn đốc chế tạo súng, tiễn, thuốc súng", "Trừng chuyên quản hoả khí, quân khí", triều Minh "dùng hoả khí chống địch là loại chiến cụ hàng đầu xưa nay mà sự nhẹ nhàng thần diệu của nó thực là mới lấy được khi Văn Hoàng đế bình Giao Chỉ, tức dùng Lê Trừng, con vua nước Việt, tướng quốc nguỵ làm quan bộ Công chuyên trách đôn đốc chế tạo, truyền hết tài năng", "từ khi có thứ binh khí đó, Trung Quốc đắc chí được với Tứ Di thường dựa vào thứ đó", "đánh thắng địch là dựa vào súng thần, phép lấy được thời Vĩnh Lạc, Tuyên Đức (1426-1435), thứ mà kẻ địch sợ nhất".
Tác phẩm
Trong thời gian ở Trung Quốc, ông đã viết tác phẩm "Nam Ông Mộng Lục" năm 1438, đây cũng là tác phẩm duy nhất của ông còn lại đến ngày nay. Trong 31 thiên truyện, Hồ Nguyên Trừng dành 4 thiên để ghi về vua Trần Nhân Tông: Trúc Lâm thị tịch (thiên số 2), Tổ linh định mệnh (số 3), Cảm kích đồ hành (số 17) và Thi ý thanh tân (số 19).
Trong bài tựa, Hồ Nguyên Trừng viết như sau:
Sách Luận ngữ từng nói: "Trong cái xóm mười nhà, thế nào cũng có người trung tín như Khâu này vậy", huống hồ nhân vật cõi Nam Giao từ xưa đã đông đúc, lẽ nào vì nơi hẻo lánh mà vội cho là không có nhân tài! Trong lời nói, việc làm, trong tài năng của người xưa có nhiều điều khả thủ, chỉ vì qua cơn binh lửa, sách vở cháy sạch, thành ra những điều đó bị mất mát cả, không còn được ai nghe, há chẳng đáng tiếc lắm sao? Nghĩ tới điểm này, tôi thường tìm ghi những việc cũ, nhưng thấy mất mát gần hết, trong trăm phần chỉ còn một hai bèn góp lại thành một tập sách đặt tên là Nam Ông mộng lục, phòng khi có người đọc tới! Một là để biểu dương các mẫu việc thiện của người xưa, hai là để cung cấp điều mới lạ cho người quân tử, tuy đóng khung trong vòng chuyện vặt, nhưng cũng là để góp vui cho những chuyện vui.
"Có kẻ hỏi tôi rằng: "Những người ông chép đều là người thiện, vậy thì trong các truyện bình sinh ông nghe thấy, lại chẳng có truyện nào bất thiện ư?" Tôi trả lời họ rằng: "Chuyện thiện tôi rất mê nghe, nên có thể nhớ được, còn chuyện bất thiện thì không phải là không có, chẳng qua tôi không nhớ đấy thôi". Họ lại hỏi: "Sách lấy tên là mộng, ý nghĩa ở chỗ nào?" Tôi trả lời: "Nhân vật trong sách, xưa kia rất phong phú, chỉ vì đời thay đổi, dấu tích hầu như không để lại, thành ra còn mỗi một mình tôi biết chuyện và kể lại mà thôi, thế không phải mộng là gì? Các bậc đại nhân quân tử có thấu cho chăng? ..."
Theo bài viết của Sun Laichen, GS đại học CS Fullerton (Mỹ) cùng nghiên cứu sinh trường National University of Singapore và Asia Research Institute, thì người Hán quả đã thu nhập một số kỹ thuật hoả công từ người Việt trong cuộc xâm lăng Đại Việt năm 1407, gọi chung là "thần cơ thương pháo pháp". Những loại vũ khí gồm thần thương/thần thương tiễn/thần cơ hoả thương, được tác giả dịch ra Anh ngữ là "magic fire-lance arrows", có chi tiết cục gỗ "mục mã tử" chèn giữa ổ thuốc nổ và viên đạn trong nòng súng để đạn bắn xa hơn, còn nắp ổ nạp lửa thì nằm ở phía chuôi súng. Tác giả nói rõ những loại súng này là "handguns" & "cannons". Hình chụp cho thấy súng thuộc hạng trung, có kích thước dài 44cm, nòng 5cm2 chứ không phải hạng thần công đại bác lớn. Tác giả xác nhận Hồ Nguyên Trừng bị giải cùng 17.000 tù nhân về Tàu. Vì họ Hồ có tài nên được trọng dụng. Minh triều bổ ông vào làm việc ở "Bing zhang ju" (không kèm chữ Hán nhưng chua nghĩa là "weapon manufacturing bureau", có lẽ là "Binh Xưởng Vụ)].
Họ Hồ đứng ra tổ chức những đội quân chuyên dùng "súng An Nam" phá quân Mông Cổ. Cho nên đến nay ở Bắc Kinh vẫn còn vài ngõ hẻm mang dấu tích đó như "An Nam Doanh", "Giao Chỉ", "Đại An Nam Doanh" và "Tiểu An Nam Doanh" tức là nơi đóng quân của mấy doanh đội này. Suốt triều Minh, mỗi khi tế súng và thần hoả công thì cũng tế một lễ cúng Hồ Nguyên Trừng!
Trong "Vân Đài loại ngữ", Lê Quý Đôn cũng viết: "quân Minh khi làm lễ tế súng đều phải tế Trừng".
Nếu nhớ lại rằng vào thời Hồ Nguyên Trừng, thế giới còn đang thai nghén về súng đại bác thì chúng ta càng tự hào về những sáng chế của ông.
Tham khảo: Trần Văn Giáp, Hồ Bạch Thảo, Nguỵ Yến
Dongtac.net

  1. Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh 1974, tập 92, trang 2264.
  2. Tôn Lai Thần, Kỹ thuật quân sự Trung Hoa và Đại Việt từ 1390 đến 1497 (Sun Laichen, Chinese technology and Dai Viet : c.1390 – 1497), Viện nghiên cứu Á Châu (ARI), Đại học quốc gia Singapore 9.2003.
  3. Dẫn theo Lê Thị Minh Huyền, trang web viethoc.com, Minh sử tân hiệu – quyển 111 – biểu 12.
  4. http://ch.shvoong.com/social-sciences/business-management/874428-%E7%81%AB%E9%BE%99%E7%BB%8F-%E8%80%83%E8%BE%A8/
  5. http://res2.nlc.gov.cn/dob/servlet/getDob?id=bj8377&xsltype=0301&type=dob%0D%0A%09%20%20%20%20%20%20%20%20%20%20%20%20%09
  6. Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, NXB Văn Hóa, Hà Nội, 1884, tập 1, trang 42. Dẫn theo Hồ Bạch Thảo, talawas.
  7. Lê thị Minh Huyền đã dẫn: http://www.chinacourt.org/html/article/200710/08/268077.shtml, trang web Pháp viện Trung Quốc cho biết ngày 14.11.2007 vụ án này đã bắt đầu bước vào trình tự phúc thẩm do tòa sơ thẩm bác đơn kiện.
http://vinhanonline.com/index.php?option=com_content&view=article&id=1048:ho-nguyen-trung-1374-1446&catid=84:thien-tai-khoa-hoc&Itemid=201

No comments:

Post a Comment