HỒ BÁ HIỀN Biên soạn
Lịch sử HỌ HỒ VIỆT NAM
Tập I (dự thảo) Nhà xuất bản …2010
Kính gửi: Các Ban LLHH các địa phương.
Theo nhu cầu của dòng họ Tôi Hồ Bá Hiền đã dự thảo sách “Lịch sử họ Hồ Việt Nam" Vì tính chất quan trọng của sách, xin đề nghị quý vị góp ý, bổ sung để sách ngày càng hoàn chỉnh. Để dễ tham khảo ý kiến,xin tạm chia làm 2 tập I này gồm 5 phần:
I.Nguyên tổ họ Hồ Việt Nam
II.Tông phái họ Hồ Thanh Hoá-Triều đại nhà Hồ
III.Tông phái họ Hồ Châu Diễn:Hồ Kha - Hồ Hồng
IV.Triều đại Tây Sơn -Tây Sơn tam kiệt Thư và nội dung góp ý xin gởi về trước 31-12-2009 theo địa chỉ: Hồ Bá Hiền (04)22.23.94.61- 01644742002 Nhà lô E, phòng 903, Khu Vườn đào, Ngõ 689 Lạc Long Quân, Tây Hồ, Hà Nội Xin trân trọng cám ơn trước
Người biên soạn Hồ Bá Hiền
LỜI NÓI ĐẦU
Họ Hồ có mặt trên đất nước Việt Nam đã trên 1000 năm, đặt nền móng lâu đời ở Châu Diễn (miền bắc tỉnh Nghệ An ngày nay) Nguyên Tổ là Trạng nguyên Hồ Hưng Dật, người phương nam Trung Quốc, thuộc một Bộ tộc trong Bách Việt, có thể nói Ngài dịch cư sang Việt Nam là về với cội nguồn người Việt, tránh bị đồng hoá : Hán Hoá.
Họ Hồ có mặt trên đất nước Việt Nam đã trên 1000 năm, đặt nền móng lâu đời ở Châu Diễn (miền bắc tỉnh Nghệ An ngày nay) Nguyên Tổ là Trạng nguyên Hồ Hưng Dật, người phương nam Trung Quốc, thuộc một Bộ tộc trong Bách Việt, có thể nói Ngài dịch cư sang Việt Nam là về với cội nguồn người Việt, tránh bị đồng hoá : Hán Hoá.
Di duệ của Ngài đời này qua đời khác,một lòng vì non sông đất nước Việt Nam. Đến nay có chi họ Hồ đã trên 40 đời. Có những nhân vật lớn lao trong lịch sử nước nhà. Đặc biệt:
+ Thánh Nguyên Hoàng Đế Hồ Quý Ly
+ Quang Trung Hoàng Đế Nguyễn Huệ (tức Hồ Thơm)
+ Nhiều nhà khoa bảng,nhà thơ, nhà văn, nhà chính trị và cách mạng các thời đại trước và thời hiện đại.
+ Thời đại Hồ Chí Minh cũng là người đứng đầu đất nước và dân tộc. Con cháu họ Hồ như vậy thời nào cũng tham gia xây dựng đất nước, chống ngoại xâm đến cùng, làm rạng danh dòng họ Hồ trong các dòng họ của dân tộc Việt Nam. Không có nhân vật phản diện lớn.Vì vậy có người họ khác đã gọi họ Hồ là một vọng tộc. Họ Hồ đã có truyền thống viết gia phả và lịch sử dòng họ, mở đầu là Duệ Quận công Hồ Sĩ Dương viết “Hồ tông thế phả” từ năm Bính ngọ 1660. Trước và sau ngày có Ban liên lạc họ Hồ Việt Nam (thành lập Xuân tế 1999 tại Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An), việc xây dựng tập hợp gia phả, phả hệ các chi họ Hồ trong toàn quốc ngày càng có kết quả. Tuy chưa thể nói đã tập hợp được hết tư liệu về dòng họ,nhưng gần 450 gia phả,phả hệ các chi họ Hồ với gần 700 sơ đồ thế thứ đã hiện lên rõ nét bức tranh “lịch sử họ Hồ Việt Nam. Trên cơ sở đó “Lịch sử họ Hồ Việt Nam” được biên soạn,có sự góp ý của đông đảo những người họ Hồ và họ khác có tâm huyết với dòng họ. Chắc rằng không tránh khỏi những sai sót,kính mong độc giả tiếp tục góp ý, bổ sung để lần tái bản sau được hoàn chỉnh hơn.
Người biên soạn .
Phần I: Nguyên tổ họ Hồ Việt Nam Nguồn gốc - Sự nghiệp
Viễn Tổ xa xưa của họ Hồ là Vua Ngu Thuấn cách đây khoảng 43 thế kỷ rồi đến Hồ Công (Ngu Vĩ Mãn) khoảng hơn 30 thế kỷ trước. Vì vậy khi Hồ Quý Ly lên ngôi, lập ra triều đại nhà Hồ đã đặt Quốc hiệu nước ta là Đại Ngu. Ngu đây theo danh từ cổ là sự yên vui (Hồ Quý Ly muốn xây dựng đất nước ta thành một nước thịnh trị, yên vui theo gương một vua hiền thời thượng cổ Trung quốc mà người Trung Hoa xưa nay vẫn tôn thờ).
Nhà thờ họ Hồ Quỳnh Đôi có câu đối “Cổ nguyệt môn cao hệ xuất thần minh Ngu Đế trụ”nghĩa là họ Hồ gốc từ vua Ngu Thuấn. (Phụ lục I sẽ nói kỹ về vua Ngu Thuấn và ngài Ngu Vĩ Mãn)
I. Nguồn gốc sự nghiệp Nguyên tổ: Theo Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) của các sử thân nhà Lê (NXB KHXH 1971 - Tập II trang 224): “Tổ tiên họ Hồ là Hồ Hưng Dật vốn người Chiết Giang, thời Hậu Hán Ngũ Quý sang làm Thái thú Châu Diễn, sau nhà ở hương Bào Đột rồi làm trại chủ” (Chú ý: Quốc sử ghi là sang làm,không ghi là được cử sang. Vì lúc này nước ta đã độc lập tự chủ (sau Ngô Quyền xưng vương năm 939 nên bọn phong kiến Trung Quốc không thể cử Ngài sang đươc). Theo “Hồ tông thế phả” phần nói về Nguyên Tổ Hồ Hưng Dật (dịch nghĩa-đại ý): “Đức Nguyên Tổ Trạng nguyên Hồ Hưng Dật, người Vũ Lâm -Tích Giang - Phúc Kiến thời Ngũ Đại còn gọi là Ngũ Quý hậu Hán Ẩn Đế là Nho thần sang nước ta thời hậu Ngô (1)làm Thái thú lộ (2) Diễn Châu, đến thời nước ta có loạn 12 sứ quân, Ngài lui về làm trại chủ hương Bào Đột (Bào Trạch) nay là Bào Giang Về sau các chi phái phồn thịnh, các người họ Hồ trong châu đều là con cháu của Ngài….” Theo nhiều tài liệu nghiên cứu về Trung Quốc,lịch sử Đông Á: Nghiêu và Thuấn thuộc 2 bộ tộc khác nhau:
+ Đào Đường Nghiêu thuộc Hán tộc
+ Hữu Ngu Thuấn thuộc Bách Việt (Bách Việt gồm nhiều tộc Việt (chữ Bách là con số ước lệ). Từ cháu 6 đời của Câu Tiễn là Võ Cương, nước Việt bị nước Sở đánh bại, con cháu dòng Bách Việt di cư rải rác ở phía nam sông Dương Tử như: Tộc Mân Việt ở Phúc Kiến,Đông Việt ở Chiết Giang, Âu Việt và Lạc Việt ở Việt Nam. Bách Việt về sau bị Hán hoá gần hết, còn Âu Việt và Lạc Việt ở Việt Nam không bị Hán hoá dù bị đô hộ trên 1000 năm, trái lại nhiều người phương Bắc sang Việt Nam ở lại dần dần lại Việt hoá) Giai đoạn Trạng nguyên Hồ Hưng Dật sang Việt Nam, ở Trung
Ghi chú: (1) Hậu Ngô là thời kỳ sau Ngô Quyền (làm Vua từ 939 - 944) gồm có: Dương Tam Kha (945 - 950), Ngô Xương Văn (951 - 965) (xem niên biểu Việt Nam) Châu Diễn có tên từ năm 627 ( triều Đường). Năm 1030, Lý Thánh Tông đổi là Diễn Châu. Trần Nghệ Tông (vua 1370 - 1372) đổi là Diễn Châu và chia Nghệ An làm 4 lộ: Nghệ An Bắc,Trung, Nam và Nhật Nam Quốc đang loạn to: Thời Ngũ Quý hay Ngũ Đại, trong khoảng hơn 50 năm, 5 triều đại thay nhau làm vua gồm:
Hậu Lương (907 - 923)
Hậu Đường (923 - 935),
Hậu Tấn (936 - 947)
Hậu Hán (947 - 950)
Hậu Chu (951 - 960).
Ngoài ra còn 10 nước nhỏ xen kẽ cát cứ: Tiền Thục – Ngô Mân - Ngô Việt - Sở - Nam Hán-Nam Bình - Hậu Thục - Nam Đường (ở miền nam) và Bắc Hán (ở miền bắc)
Thời kỳ trước Ngô Quyền (trước 938), nước ta thuộc Nam Hán. Vì vậy đậu Trạng nguyên lẽ ra phải giữ trọng trách trong triều nhưng Ngài đã dịch cư sang Việt Nam và được cử làm quan Thái thú Châu Diễn. Từ đầu thế kỷ thứ 7, Nghệ Tĩnh ngày nay gồm 2 Châu: Châu Hoan và Châu Diễn.
Châu Diễn có cương vực kéo dài từ biển đông đến biên giới Việt Lào gồm các huyện Quỳnh Lưu - Yên Thành - Diễn Châu - Nghĩa Đàn - Quỳ Hợp - Quế Phong ngày nay. Trị sở châu Diễn thế kỷ 7 về trước đóng ở Quỳ Lăng (Yên Thành), từ thế kỷ thứ 8 trở đi dời về Phủ Quỳ rồi Tiên Sinh (lúc đó thuộc huyện Quỳnh Lưu, từ năm 1840 thuộc huyện Nghĩa Đàn (1). Nguyên Tổ sang Việt Nam thế kỷ 10, trị sở Châu Diễn không còn ở Quỳ Lăng từ lâu: Diễn Châu xưa đóng Phủ Quỳ Dần dà con cháu dời về Tiên Sinh (Diễn ca của Hồ Sĩ Đôi)
Ghi chú: (1) huyện Nghĩa Đường thành lập năm 1840 (tách từ huyện Quỳnh Lưu và một phần huyện Yên Thành) .Năm 1886 vì kỵ huý đổi thành huyện Nghĩa Đàn. Tiên Sinh nay thuộc các xã Nghĩa Thuận và Nghĩa Mỹ huyện Nghĩa Đàn (tất nhiên thời trước thuộc huyện Quỳnh Lưu). Nơi đây ông Hồ Kha đời 13 đã sinh 2 con (Trưởng là Hồ Hồng, thứ là Hồ Cao) rồi mới về sách Hoàn Hậu (sau là Thổ Đôi trang rồi nay là Quỳnh Đôi). Cuối đời ông lại về và mất ở Tiên Sinh. Sau triều Ngô,nước ta rơi vào giai đoạn cát cứ của 12 sứ quân (khoảng 966-968). Sinh đời loạn rồi chán đời loạn ở Trung Quốc. Nhưng đến loạn 12 sứ quân, nước ta lại xẩy ra tranh giành cát cứ liên miên, nên khoảng năm 967, Ngài từ quan (1) đưa bà Tôn phu nhân (2) và gia quyến tìm nơi lập nghiệp.
Ngài chọn hương Bào Đột làm Trại chủ. Bào đột ngày nay gồm phần lớn xã Quỳnh Lâm và một phần xã Ngọc Sơn huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An (3) Hương thời ấy gồm cả một vùng rộng lớn,là đơn vị hành chính sau huyện. Hương lớn 160 - 540 hộ, Tiểu hương 70 - 150 hộ . Trại của Ngài không chỉ ở hương Bào Đột mà kéo dài đến Đường Khê thượng thuộc tả và hữu ngạn sông Hiếu (Nghĩa Đàn ngày nay). Ngài lo nghề nông, chiêu mộ dân phiêu tán, lập ấp trại, cùng gia đình cần cù lao động, sống chan hoà với dân bản địa, giúp đỡ nhân dân trong vùng, tổ chức học văn luyện võ, chăm sóc mùa màng, bảo vệ thôn xóm,lại là một trí thức lớn nên uy tín của Ngài ngày càng mở rộng ra cả các hương xung quanh. ....
Ghi chú: (1) có tài liệu viết :Ông là người biết và giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp các sứ quân khác.Đó là một suy đoán nhưng chưa có cơ sở lịch sử minh xác.Chú ý loạn 12 sứ quân chỉ xẩy ra trên vùng Bắc Bộ ngày nay,không xẩy ra ở vùng Hoan Diễn (2) Rất nhiều tư liệu viết: Nguyên Tổ lấy vợ người bản địa (tức người Việt),
Gia phả ông Cử nhân Hồ Trọng Phiên (1856-1911), con trai Thượng thư Hồ Trọng Định (1822 - 1882) viết: Bà chính thất Nguyên Tổ là Tôn phu nhân (có thể bà không phải là họ Tôn mà đây là một tôn vinh quý hiệu). (3) Ngày nay xã Quỳnh Lâm gồm thêm làng Thuận Nghĩa,còn xã Ngọc Sơn gồm có thôn Thượng Đột của xã Quỳnh Lâm xưa Vì vậy khi các thế lực cát cứ trang giành xâu xé nhau,có người đã thăm dò Ngài:”Trong châu Diễn, tôi nhận thấy tôn ông được mọi người tin yêu mến phục, sao dịp này tôn ông không đứng ra cứu dân giúp đời một phen” Ngài chân thành nói rõ chính kiến:”Người xưa có câu:”Một tướng thành công hàng vạn xương cốt khô héo”. Kinh Thư còn ghi:”Lửa viêm Côn cương, ngọc thạch câu phần” tức lửa bốc cháy núi Côn cương, ngọc đá đều bị đốt cháy cả.” Tôi luôn luôn nhận rõ dân là gốc của mọi thời đại,tôi chỉ muốn vạn đại vi dân (tức muôn đời vì dân), đó là điều tôi muốn dặn lại con cháu” Con cháu Ngài ngày càng phát triển,ngày nay trong các dòng họ của dân tộc Việt Nam,con cháu Trạng nguyên Hồ Hưng Dật ngày càng đông đúc thịnh vượng,các chi họ Hồ gần như có mặt suốt từ Bắc tới Nam Việt Nam. Gia phả họ Hồ nhấn mạnh 8 chữ:”Châu trung Hồ tính giai kỳ miêu duệ” nghĩa là người họ Hồ trong châu đều là con cháu Ngài. Cũng có câu:”Đại Nam nhất Hồ”nhưng cần hiểu là ở Việt Nam có một họ Hồ duy nhất là con cháu Ngài, chứ không phải họ Hồ mạo xưng chỉ có ta là nhất.
Vì vậy ngày nay con cháu họ Hồ cả nước (1) đều có chung
Ghi chú: (1) Nếu nói chính xác thì lẻ tẻ có vài chi họ Hồ ở Việt Nam hiện nay là khác nguồn gốc(như chi Hồ Khẩu quận Tây Hồ Hà Nội - có nhà thờ chung 9 họ - nhưng là dấu vết còn lại từ đời Hùng Vương; chi Phú Yên xã Hương Sơn huyện Mỹ Đức - Hà Nội: Tổ sang từ đời nhà Minh; chi Diễn Kỳ huyện Diễn Châu Nghệ An cũng tương tự). Tuy nhiên từ ngày có Ban liên lạc họ Hồ toàn quốc, các chi họ trên đều đã hội nhập, không có tách biệt. Nguyên Tổ là Trạng nguyên Hồ Hưng Dật. Nhưng Châu Diễn, đặc biệt vùng đất Quỳnh Lưu xưa vẫn được xem là nơi phát tích họ Hồ nên khi Hồ Quý Ly lập ra triều đại nhà Hồ đã đổi tên vùng này là Phủ Linh Nguyên (đất thiêng và nguồn gốc). Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương lập sổ bộ cả nước nói rõ: ”họ Hồ có 2 tông phái: Tông phái Châu Diễn và tông phái Thanh Hoá”. Các ông còn dựng Miếu thờ ở Lăng Thiên Xương (Thanh Hoá) để thờ cúng Tổ Khảo (ông cha), sớm chiều cúng tế, lại dựng Miếu thờ ở các lăng Bào Đột phủ Linh Nguyên để thờ cúng Tiên Tổ họ Hồ.Ở kinh thành dựng Đông Thái miếu thờ Tiên tổ họ Hồ, Tây Thái Miếu thờ họ ngoại là Trần Minh Tông và Trần Nghệ Tông.
Đền thờ Nguyên Tổ ở Bào Đột sẽ nói ở dưới. Vài vấn đề cần lưu ý:
a. Phúc Kiến hay Chiết Giang: Như trên đã nói: Quốc sử ghi: Nguyên tổ Trạng nguyên Hồ Hưng Dật, người Chiết Giang; nhưng Hồ Tông thế phả ghi là Vũ Lâm -Tích Giang - Phúc Kiến.Vấn đề này hiện rất khó xác dịnh chính xác, tuy vậy có thể nói ró hơn: Phúc Kiến hay Chiết Giang đều thuộc đất Dương Châu xưa của Trung Quốc, tên Chiết Giang có từ thời Đường, tên tỉnh Phúc Kiến mới có từ đời Tống.Vì vậy chúng ta tạm kết luận: Quê hương của Nguyên Tổ là vùng Giang Nam, tên vùng cụ thể là đất Dương Châu .
b. Chức Thái thú: Nguyên Tổ sang Việt Nam khi nước ta đã độc lập tự chủ sao còn chức Thái Thú? Lúc này ta mới dành độc lập tự chủ khoảng 12 năm (từ năm 938), tên hệ thống quan lại gần như chưa đổi.
Ví dụ: Cha Đinh Bộ Lĩnh là Đinh Công Trứ là Thứ sử Hoan Châu. Mãi đến năm 1004, sau khi Nguyên Tổ sang hơn 50 năm), Lê Hoàn sai con là Hành quân vương Minh Đế sang thăm nước Tống vẫn ghi “Nhiếp Hoan Châu Thứ sử” (ĐVSKTT tập I)
c. Bào Đột: Các sử sách chữ Hán đều ghi: Bào Đột hay Bào Trạch, sau đổi ra Bào Giang (Chữ Hán có 8 chữ Bào. Bào ( ) đây là bào ảnh, bọt nước. Đột ( ) là nổi lên, đột phá, đột biến. Về sau có chữ Ngũ Bàu vì ở 5 thôn Bào Đột đều có 5 đầm nước lớn (Bàu Diệm, Bàu Trung, Bàu Ngọc, Bàu Yên, Bàu Gan). Vậy không nên viết: Bàu Đột. Thậm chí có người còn đi xa hơn viết là Bàu Đót !!
d. Trị sở châu Diễn và lăng mộ Nguyên Tổ: Theo “Vân đài loại ngữ” của Lê Quý Đôn, từ thế kỷ 7 về trước trị sở Châu Diễn ở Quỳ Lăng (nay là xã Lăng Thành - Yên Thành). Thế kỷ 8 trở đi đã dời về Phủ Quỳ rồi Tiên Sinh. Nguyên tổ Hồ Hưng Dật sang Việt Nam giữa thế kỷ 10, trị sở Châu Diễn không còn ở Quỳ Lăng đã hơn 200 năm, càng không thể có lăng mộ Ngài ở đây! Vì vậy xin đừng tin “báo mộng” trong vấn đề này.Vả lại “Nghệ An ký “(Bùi Dương Lịch) và ĐVSKTT đều ghi “Hồ Hán Thương xây Đền thờ Nguyên Tổ ở các Lăng Bào Đột” Mộ Nguyên Tổ lúc đầu ở Bào Đột, còn sau có thể dời đi nơi khác, hiện còn là vấn đề con cháu phải xác định tiếp, nhưng cần nghe các nhà khoa học và Tâm linh có uy tín, không thể nghe vu vơ được
2. Đền thờ Đức Nguyên Tổ: Đền thờ Đức Nguyên Tổ do Vua Hồ Hán Thương vâng lệnh Thái Thượng hoàng Hồ Quý Ly xây dựng năm Quý mùi 1403 ở Bào Đột. Sau này nhân dân còn phối tế cả 2 vua Hồ nên nhân dân quen gọi là Đền Vua Hồ. Bào Đột gồm một dãy núi lớn trong huyện Quỳnh Lưu, mạch núi Mông Gà (Kê quan) chạy xuống phía đông, hình thế hiểm trở, đầm nước mênh mông, sông Thai sông Đàm (tức sông nhà Lê) chạy vòng quanh. Đền ở trên triền núi. Di tích Đền này là Di tích lịch sử duy nhất có niên đại Trần - Hồ còn sót lại trên đất Nghệ An (Sách Nghệ An: Di tích danh Thắng - NXB Nghệ An 2005).
Sách “Dư địa chí Văn hoá Quỳnh Lưu” NXB Nghệ an 1998 - Trang 545) GS Ninh Viết Giao viết: “Đền nằm trên hòn Rồng, bên trái là núi Ngọc, bên phải là hòn Rết, Cả 3 hòn đều nằm trong dãy núi Y Sảo, đó là thế núi long ngai. Trước cửa Đền là đồng cửa đến, rồi đến các hòn Ô, hòn Phượng, hòn Đầm. Theo các cụ già địa phương, Đền làm theo kiểu nội công, ngoại quốc (trong thì chữ công, ngoài thì chữ quốc), đó là kiến trúc Đền thường có ở nhiều nơi. Du khách đến thăm Đền, qua cửa tam quan và một sân rộng là Toà Chính Điện 5 gian. Sau toà Chính Điện là một sân nhỏ hai bên có Tả Vu, Hữu Vu. Đi hết sân này là Toà Trung Điện 3 gian 2 hồi. Sau Toà Trung Điện là Trung Điện với Hậu Cung (nơi thờ chính có 3 gian nhỏ)…. Sân ngoài góc bên trái là Miếu thờ Thái Dương Công chúa. Rồi nào voi đá, ngựa đá, rồng đá, bia đá…Bao quanh Đền là một bức tường đá cao 1,2 m…Đáng chú ý là những viên gạch vuông lát nền, mỗi chiều 0,4 m dày 8 cm, giữa là mặt tròn nổi, xung quanh là đường tròn, có hòn 3 đường, có hòn 4 đưòng, ngoài ra là hoa văn. Tất cả đều nổi ngoài ra là các mảnh vỡ khác, có mảnh hình lá sen, lá đề, lá đỗ, hình đuôi rồng và hoa lá khác. Tất cả cũng đều nổi….Nhân dân còn nhớ một đôi câu đối ở đền này: “Trần Ngu kinh kỷ thiên thu tích Bào Sảo giang sơn vạn đại từ “ (có nghĩa là: Dấu vết nhà Trần, nhà Hồ (quốc hiệu Đại Ngu) sẽ trải qua hàng ngàn năm. Cái đền thờ ở Bào Đột và núi Sảo này còn mãi với giang sơn)
Theo sách “Quỳnh Lưu phong thổ ký”, Tam trường hội thí Hồ Tất Tố (1755 - 1835) đời 29 viết:” Hồ Quý Ly lấy trang Bào Đột là đất Khởi Tổ, rồi xây dựng hình thế núi sông, kiến thiết làm “Tiểu Tràng An” (kinh đô nhỏ), xây dựng cung phủ kho tàng, kiến thiết tảng gạch và rồng đá, có ngòi nước và đường đi giao thông…” Như vậy đây thực sự là một căn cứ quân sự. Ngày nay con cháu họ Hồ đã nói: ”Đức Nguyên Tổ đã chọn một thế đất tuyệt đẹp để cho con chúa hưởng phúc lâu dài. Bào Đột đã trở thành “Linh địa của họ Hồ Việt Nam” Đền thờ Đức Nguyên Tổ có giá trị kiến trúc, lịch sử, có tính nghệ thuật cao. Tiếc thay chỉ mới cách đây hơn 30 năm, những chủ trương không đúng của các kẻ vô văn hoá đã phá dỡ. Ngày nay con cháu họ Hồ cả nước đã xây dựng xong nhà bia tưởng niệm và các công trình phụ trợ. Hiện đang xúc tiến thiết kế, tiến tới xây dựng lại Đền thờ Nguyên Tổ và 2 Vua Hồ. Ngày 11 tháng giêng năm Bính tuất (08/2/2006) con cháu họ Hồ ở nhiều vùng đất nước về hương Bào Đột xưa dự lễ khánh thành nhà bia tưởng niệm Đức Nguyên Tổ.
3. Hội Đền Vua Vẫn trích từ sách “Địa chí văn hoá Quỳnh Lưu “sdd – Trang 717”: “Đền thờ Nguyên Tổ thờ cả 2 Vua Hồ (Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương). Nói ở Bào đột nhưng cụ thể ở trên đồi Thượng Đột (nay ở giữa 2 xóm 9 và 10 của xã Ngọc Sơn). Trước đây năm nào cũng tổ chức lễ hội vào ngày 12 - 3 ÂL, nhưng đại lễ thì 3 năm một lần kéo dài 3 đến 5 ngày. Xã Bào Đột có 5 thôn (Ngũ Bàu). Đền vua Hồ có 300 mẫu lộc điền chia đều cho 5 thôn dùng hoa lợi vào cúng tế, nên các thôn luân phiên chủ trì và tổ chức lễ hội. Lễ hội diễn ra như sau:
+ Chiều 10/3 Tế dịch bào ở Đền Vua Hồ và các đền trong 5 thôn
+ Ngày 11-3: Sáng các thôn trong xã rước thần thôn mình đến thôn sở tại (thôn đến kỳ chủ trì tổ chức lễ hội) Chiều: Các thôn lên rước thần Vua Hồ về thôn sở tại. Đây là đám rước uy nghi, trang trọng và đẹp hơn cả. Tối Lễ túc yết.
+ Sáng 12-3 : Đại tế Chiều: Các thôn lần lượt vào tế và dâng lễ phẩm lên Vua Hồ.
+ Sáng 13 – 3: 5 thôn rước kiệu các thần Vua Hồ về Đền Vua Hồ. Chiều: Các thôn rước thần thôn mình về từng thôn
+ Ngày 14 - 3: Sáng các thôn đại tế ở thôn mình. Chiều Diễn trò vui
+ Ngày 15 - 3: Lễ cáo tất ở Đền Vua Hồ và Đền các thôn Lễ vật để tế: Phải đủ tam sinh. Ngoài lợn và trâu, thế nào cũng có con me cắt tiết, làm thịt để cả lên bàn thờ. Đêm yết tế chỉ có oản chè. Trò vui: Trong những ngày lễ hội ở Đền Vua Hồ thường có cờ người, bài điếm, đấu vật, chơi đu, chọi gà. Các đêm thường có diễn tuồng hoặc chèo. Đêm đại tế có bắn pháo hoa.
4. Di duệ của Nguyên Tổ từ đời 2 đến đời 11: Bia tưởng niệm Trạng nguyên Hồ Hưng Dật Văn bia chữ Việt ở Bào Đột. Sau Nguyên Tổ, tiếc rằng sử sách không ghi chép đựoc thế thứ 10 đời (Khoảng 300 năm), nhưng trong quốc sử, thần tích Đền, Chùa và gia phả một số chi họ Hồ còn ghi lại được một số vị, xin ghi lại sơ lược các vị này:
a. Hồ Thủ Ích: Làm phòng sát sứ. Năm Ky Dau (1009) đem 5000 quân của châu Hoàn Đường sửa chữa đường từ châu đến giáp sông để quân đi cho tiện. Đây là thời Lê Long Đỉnh nhà Tiền Lê (ĐVSKTT – sdd - Tập I trang 184) Theo ước đoán của chúng tôi : Ong Hồ Thủ Ích sinh khoảng trước năm 985, rất có thể là hàng cháu nội Nguyên Tổ
b. Một tuấn kiệt họ Hồ lấy công chúa Lý Nguyệt Đích sinh ra công chúa Hồ Nguyệt Đoan (ĐVSKTT – sdd - Trang 221 tập I). Nhà Lý (1010 -1225) cách năm sinh của Nguyên tổ ít nhất hơn 100 năm nên vị này là di duệ của Nguyên tổ.
c. Hồ Đỗ: Khởi nghĩa chống nhà Lý thời Lý Cao Tông (1176-1210). Hồ Đỗ khởi nghĩa ở Diễn Châu lúc nhà Lý bắt đầu suy tàn. Sau đó bị Đàm Dĩ Mông dẹp tan.
d. Thiền sư Hồ Bà Lam: Ngọc phả chùa Bảo Tháp, di tích lịch sử văn hoá đã xếp hạng ngày 28 - 9 - 1990 tại làng Thượng Phúc xã Tả Thanh Oai huyện Thanh Trì Hà Nội ghi ”Vị Thiền sư trụ trì họ Hồ tên là Bà Lam. Nhà sư chân tu đắc đạo, Ngài thiết đàn hoả thiêu và hoá ngày 14 -4 ÂL. Nhân dân thương tiếc….” Ngọc phả này do Thượng thư Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính viết vào năm Vĩnh Hựu thứ 6 (Lê Ý tông 1735 -1739) còn cho biết : “Chùa Bảo tháp do Lý Thầm, em vua Lý Huệ tông xây dựng bên dòng sông Nhuệ năm 1225. Vị cao tăng Hồ Bà Lam đến đây tu hành năm 1329 (sau 104 năm) đời vua Trần Minh tông…Hồ Bà Lam tổ chức nuôi và dạy trẻ mồ côi, trẻ nghèo,nuôi dưỡng những người góa bụa cô đơn, già yếu không nơi nương tưa của khắp trấn Sơn Nam Thượng (Hà Nội ngày nay). Ông Hồ Bà Lam nuôi dạy trẻ như một phép nhiệm màu . Đến nay dân vùng này còn truyền khẩu bài ca về Bồ tát Hồ Bà Lam: “Các nhà đưa trẻ Tổ trông Tổ vẽ cái vòng cho trẻ ngồi trong Suốt ngày không phải ai trông Quanh quẩn cái vòng,đứa trẻ vẫn chơi Cô nhi quả phụ các nơi Đến Chùa đều được Tổ nuôi ngày ngày” Hàng năm nhân dân Thượng Phúc vẫn làm giỗ Hồ Bà Lam vào ngày 14 - 4 ÂL (năm 2009 là lần thứ 635). Đã gần 2/3 thiên niên kỷ, nhân dân vùng này vẫn truyền tụng rằng: “Khi Thiền sư hoá Phật (năm Ngài 88 tuổi), lửa ngày càng bốc cao mà vẫn liên tục nghe đều đặn tiếng tụng kinh gõ mõ của Thiền sư. Đông đảo nhân dân thương tiếc thì Ngài bảo:Ta về cõi Phật, không có gì phải thương khóc”. Điều duy nhất Ngài dặn lại là: “Sau này nếu có làm giỗ ta, thì phần cỗ phải chia đều cho trẻ nghèo, mồ côi, những người già yếu, goá bụa cô đơn,không nơi nương tựa..” Hơn 600 năm rồi mà nhân dân vùng Trang Hạ vẫn giữ được mỹ tục ấy và tôi đã gặp những người vốn là trẻ mồ côi nay đã già cả kể rằng: “Tôi đỡ khổ,trưởng thành được như ngày nay là nhờ hưởng phúc bởi lòng nhân hậu của Thiền sư Hồ Bà Lam, bởi lòng nhân hậu đó đã được truyền lại từ đời này qua đời khác..” Sau khi Hồ Bà Lam hoá (1374), Minh từ Thái hậu Hồ Thuận Nương (cô ruột Hoàng đế Hồ Quý Ly) đã tiếp tục sự nghiệp của Ngài, có thể là chú họ của Bà. (Phàn II sẽ nói về bà Hồ Thuận Nương) Chùa Bảo Tháp ở thôn Thượng Phúc xã Tả Thanh Oai huyện Thanh Trì Hà Nội. Tượng Thiền sư Hồ Bà Lam trong cung riêng ở chùa Bảo Tháp
e. Hồ Thuật: Ông cùng nhân dân khởi nghĩa ở châu Diễn chống nhà Trần thời Trần mạt (Trần Phế đế 1378 - 1388): Lấy của nhà giàu chia cho người nghèo. Nhà Trần đã dẹp tan, Ông bị chém
g. Hồ Long: Người châu Hoá. Năm 1372 được cử làm Tri châu Hoá châu, cùng lúc Hồ Tông Xác được cử lầm Hàn lâm viện học sĩ (ĐVSKTT -sdd - Tập II trang 182). Hiện có tư liệu ghi mộ ông còn ở xã Quảng Thanh huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên-Huế, hàng năm dân vẫn tảo mộ vào ngày 12-12ÂL. Một miếu thờ do làng Thể Lai Thượng lập trên trục đường Bạch Đằng-số 120 (Huế) thờ một Đại tướng quân :Có thể thờ ông Hồ Long ?
h. Hồ Cương: Người châu Diễn. Đời Trần Thuận tông được cử làm Giám quân Tả thánh dực (năm 1393). Tháng 10 năm Bính Tý (1396) được cử làm Đại tri châu Diễn Châu (ĐVSKTT - sdd - Tập II trang 213)
i. Tổ các chi họ Hồ gốc chính ở thôn Hoa Viên xã Đạm Thuỷ huyện Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh: Hai ông là Hồ Nhất Lang và Hồ Nhị Lang (2 anh em ruột không rõ tên huý) vào đây đã khoảng trên 700 năm,rất có thể thuộc 10 đời thất truyền. (chưa rõ có liên quan gì với Hồ Thủ Ích?) Hồ Nhất Lang có vợ con, hiện có đến hơn 10 chi họ cùng tế tổ và giữ gìn lăng mộ Ngài ở Ao Đìa Si xã Thạch Bàn. Chi họ có rất nhiều người làm Tướng, làm Quan. Sau vụ kiện Trần - Hồ bị thua kiện đã thất tán, nay mới chắp nối lại.
Hồ Nhị Lang là một đạo sĩ, có nhiều công đức với dân quanh vùng, nên ở đây còn lưu giữ 5 đạo sắc phong của các dời vua : Nhà Lê: Cảnh Hưng; nhà Nguyễn: Minh Mạng, Thiệu Trị, Thành Thái, Khải Định. Nhân dân 2 xã Thạch Đỉnh, Thạch Bàn phụng thờ gọi là “Đức thánh Tương Bình” Trong các chi họ vùng này có chi Chân Sơn hiện thờ Tiến sĩ Hồ Khước (có sắc phong năm Đại Phúc ? thứ 3 ngày 13 - 8 ÂL).
k. Hồ Đình Nghĩa: Ông là tổ chi họ Hồ Xuân - Hồ Trí làng Thái Lão (nay là khối 8 thị trấn Hưng Nguyên - Nghệ An). Gia phả ghi ông từ thôn Trung lập (Bào Đột) vào đây lập nghiệp Nhà Thờ chi Thái Lão - Hưng Nguyên thờ từ ô Hồ Đình Nghĩa. Lăng mộ Hồ Nhất Lang ở Thách Bàn -Thạch Hà-Hà Tĩnh Đền thờ Hồ Nhị Lang (Đức thánh Tương Bình) ở Thạch Hà
nguồn: http://hohovietnam.vn
(Theo Văn phòng BLLHHVN)
2 comments:
Họ Hồ ổ Nha Trang Khánh Hòa như thế nào?
Tôi Hồ Xang ĐT o702456406 ông bà thủy tổ của tôi là Hồ đức Kế và bà Trương thị Đồ ở Quỳnh lưu nghệ An vô nam cuối thế kỷ 15 đến tôi là đời thứ 12.lâu nay chưa tìm được gốc tích của ông bà thủy tổ. Những năm qua tôi có đi về tế tổ nhà thờ tộc Hồ Tam Công và Quỳnh Đôi. Về đền thờ đức nguyên tố thấy uy nghiêm tráng lệ trên đồi núi tôi có cảm tác hai câu. Đền nghiên ngã bóng trên lưng núi. Ngói đỏ khoe mình dưới trời Xanh. Hôm nay đọc biên tập lịch sử họ Hồ Việt nam tôi rất tự hào. Xin cảm ơn bác Hồ sỹ Hiền chủ biên. Kính chúc bác và ace trong sức khỏe an vui
Post a Comment