Cũng như một số quốc gia Châu
Á khác, trong các triều đại phong kiến Việt Nam, Đàn Nam Giao là một
trong số những đàn tế quan trọng nhất. Chức năng chính của Đàn Nam Giao
là nơi tế trời đất, cầu mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an, Vương triều
trường tồn, thịnh trị. Ngoài chức năng chính trên, đàn còn là nơi tế
linh vị của các Hoàng đế đương triều, các vì sao và nhiều vị thần khác
Tế
Nam Giao còn là lễ tạ ơn trời đất về sự hiện diện của vương triều, được
coi là nghi lễ mang tính Cung đình, “là lễ của vương giả”. Vì vậy, Đàn
Nam Giao trở thành một công trình kiến trúc Cung đình không thể thiếu,
ít nhất là từ thế kỷ XII trở đi.

Nền đàn 1
Tuy nhiên, cho đến nay việc nghiên cứu về các Đàn Nam Giao ở Việt Nam chưa được chú ý, tư liệu ghi chép trong sử sách không nhiều và cũng chưa có một chuyên khảo nào về lĩnh vực này. Hiện chỉ có một số nghiên cứu bước đầu về Đàn Nam Giao nhà Nguyễn ở Kinh đô Huế của tác giả Phan Thuận An. Mặt khác do loại hình di tích này đặc biệt, không phổ biến, lại bị phá huỷ nhiều nên sự hiểu biết về chúng còn rất hạn chế.
Đối
với mỗi một Vương triều, chỉ có duy nhất một Đàn Nam Giao gần nơi Vua
ở, thông thường nơi đó là Kinh đô của một quốc gia. Trong trường hợp đất
nước có những biến cố chính trị, vua phải dời đô đến nơi khác thì Đàn
Nam Giao sẽ được dựng mới.
1. Vị trí địa lí, cảnh quan
Đàn
Nam Giao được Hồ Hán Thương cho xây dựng năm 1402 ở phía Tây Nam núi
Đốn Sơn (dân địa phương gọi là núi Đún), nằm thẳng trên đường thần đạo
từ cổng Nam thành Nhà Hồ nhìn ra..
Núi
Đốn Sơn có tuổi địa chất vào thời kỳ Trias hạ khoảng 225 triệu năm cách
ngày nay thuộc địa phận xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Lộc, cách Thành Nhà
Hồ khoảng 2,5km về phía Đông Nam. Núi có hai đỉnh cao 71m và 49m so với
mực nước biển. Sườn núi phía Đông có Đàn Nam Giao và giếng Cổ Ngự Duyên
(còn gọi là Ngự Dục, dân gian gọi là giếng Vua). Núi Đốn Sơn cũng là nơi
diễn ra lễ Minh Thệ của nhà Hồ vào năm 1399, với sự kiện Trần Khát Chân
và tôn thất, quý tộc nhà Trần mưu giết Hồ Quý Ly, hiện còn Đền thờ Trần
Khát Chân ở phía Đông Bắc của núi này. Núi Đốn Sơn được xem là “Tiền
án” theo thuyết phong thủy đối với Thành Nhà Hồ. Toạ độ địa lý của khu
vực này là: 200 3’ 50” vĩ độ Bắc và 1050 37’ 40” kinh độ Đông.
Do
địa thế sát chân núi, thoải dần về phía Nam nên ở khu vực Đàn Nam Giao
quanh năm khô ráo. Đàn Nam Giao có diện tích 43.000m2. Mặt bằng hiện tại
còn lộ rõ 5 nền đất với 5 bậc cấp (theo thứ tự từ trên xuống). Nền 1
(bậc cấp thứ nhất) hình chữ nhật, nằm ở vị trí cao nhất của đàn tựa lưng
vào dải đá gốc ở chân núi Đún, cao hơn so với code 0 là 1,07m. Nền thứ 2
thấp hơn so với nền 1 là 1,87m; nền thứ ba thấp hơn nền thứ 2 là 2,90m;
nền thứ 4 thấp hơn nền thứ 3 là 1,90m; nền thứ 5 thấp hơn nền thứ 4 là
1,13m. Như vậy, từ nền đàn cao nhất xuống nền đàn thấp nhất chênh lệch
nhau là 7,80m. Các nền đàn đều hướng về mặt Đông Bắc dựa vào núi, mặt
Tây Nam quay ra hướng sông Mã.
2. Quá trình điều tra và nghiên cứu
Khu
Di tích Đàn Nam Giao đã được cán bộ Bảo tàng Thanh Hoá và Phòng Văn hoá
huyện Vĩnh Lộc phát hiện, đưa vào thống kê di tích từ những năm 1980.
Năm 1990 cụm di tích lịch sử văn hóa gồm: Đền thờ Trần Khát Chân, Chùa
Giáng (Tường Vân), Chùa Giò (Nhân Lộ) và Đàn tế Nam Giao thuộc xã Vĩnh
Thành đã được Sở Văn hóa - Thông tin Thanh Hoá công nhận là di tích cấp
tỉnh. Cuối năm 2007 Di tích Đàn Nam Giao đã được Bộ Văn hoá, Thể thao và
Du lịch công nhận là di tích khảo cổ cấp Quốc gia.
Tính
đến nay, Đàn Nam Giao đã diễn ra 4 đợt khai quật và thám sát, với diện
tích đã khai quật hơn 18.000m2. Hiện nay cuộc khai quật lần thứ 4 vẫn
đang tiến hành.
Đợt
khai quật lần thứ nhất tiến hành năm 2004 tuy mới chỉ làm xuất lộ được
một số các dấu tích kiến trúc của Đàn Nam Giao nhưng kết quả của đợt
khai quật đã cho biết sự có mặt của Đàn Nam Giao nhà Hồ và mở ra hướng
nghiên cứu tiếp tục cho các cuộc khai quật tiếp theo.
Đợt
khai quật lần thứ hai được tiến hành vào năm 2007 tiếp tục khẳng định
vị trí của Đàn Nam Giao chính, cho phép xác định được phần nào quy mô
của Đàn Nam Giao, góp phần quan trọng trong việc lập hồ sơ khoa học công
nhận di tích cấp Quốc gia, đồng thời phát hiện một số bố cục kiến trúc
mới của đàn cùng những di vật đặc trưng của thời Hồ.
Đợt
khai quật lần thứ ba tiếp tục làm xuất lộ rõ hơn nền móng kiến trúc ba
vòng tường đàn, đường thần đạo, sân lát gạch cũng như thu thập được
nhiều di vật, hiện vật có giá trị nghiên cứu.
Đợt
khai quật lần thứ 4 (đang diễn ra) tiếp tục khẳng định, ở nền đàn 2
ngoài đường thần đạo được lát đá đã phát hiện từ các cuộc khai quật
trước, còn lại là khu vực sân lát gạch vuông nằm gọn trong vòng đàn 1; ở
nền đàn 3 đã xác định được hướng và quy mô của đường thần đạo, sân lát
gạch ở nền đàn 3, phạm vi của con đường lát đá phiến, kè đá ở chân nền
đàn 2 và 3, tường đá vòng đàn 1 và vòng đàn 2; ở nền đàn 4 đã xác định
chắc chắn vị trí, quy mô của giếng Vua, kè đá phía Đông Nam của nền đàn
4.
Qua
4 đợt khai quật và kết quả bước đầu của cuộc khai quật lần thứ tư, hầu
hết nền móng kiến trúc và cấu trúc chính của Đàn Nam Giao đã phát lộ.
3. Cấu trúc Đàn Nam Giao
3.1. Nền đàn 1
Nền
đàn 1 quay theo hướng Nam, chếch Tây 500. Mặt Đông Bắc dựa vào núi, ba
mặt còn lại trống, mặt Đông Nam, Tây Nam, Tây Bắc tiếp giáp với nền đàn 2
và được nền đàn 2 bao xung quanh. Hiện tại nền đàn 1 vẫn chưa được khai
quật nên chưa xác định rõ cấu trúc và các lớp đất đá bên trong. Hình
dáng bên ngoài của nền là hình chữ nhật, cao 1,07m so với code 0, diện
tích 295,2m2 (Bắc Nam 12,3m x Đông Tây 24m) nằm ở trung tâm đàn, sát với
chân núi, là nền đàn cao nhất.
3.2. Nền đàn 2
Nền
đàn 2 mặt phía Đông Bắc tiếp giáp với nền đàn 1. Mặt Đông Nam và Tây
Bắc tiếp giáp với nền thứ cấp thuộc vòng đàn 3, mặt Tây Nam dốc theo
kiểu taluy, dốc 300, được kè đá ở dưới chân. Nền đàn 2 quan trọng nhất
bởi tất cả các kiến trúc chính liên quan đến tế giao đều tập trung ở
đây.
3.3. Nền đàn 3
Nền
đàn 3, mặt phía Đông Bắc tiếp giáp với kè đá nền đàn 2, mặt phía Tây
Bắc và Đông Nam vẫn là vùng thấp trũng. Mặt Tây Nam tiếp giáp với nền
đàn 4. Chiều Đông Tây 140,6m, chiều Bắc Nam 31,9m, trong đó lòng đàn
phía Đông Tây 109,26m.

Nền đàn 3
3. 4. Nền đàn 4 và 5
Đây
là khu vực dân sinh, công tác giải phóng mặt bằng chưa xong nên chưa
khai quật rõ toàn bộ mà mới chỉ được nghiên cứu, tìm hiểu được một phần.
Tuy nhiên, qua thám sát chỉ bằng mắt thường cũng thấy rất rõ các hàng
đá bó vỉa của cấp nền này, giúp cho ta hình dung được quy mô của đàn.
3.5. Di tích kiến trúc trên các vòng đàn
3.5.1. Móng tường của 3 vòng đàn
-
Vòng đàn 1 (trong cùng): nằm ở nền đàn 2, hình đa giác, cạnh giáp với
chân núi được làm vát chéo góc dài 27m. Tường dọc hướng Tây Bắc của vòng
đàn 1 dài 40,3m. Vòng đàn này có 4 cống thoát nước. Chiều rộng của vòng
đàn 1 có chiều Tây Bắc- Đông Nam là 61,2m.
-
Vòng đàn 2 (nằm giữa): hình chữ nhật, lòng đàn - chiều Tây Bắc - Đông
Nam là 70,80m. Chiều dài của tường dọc chạy theo hướng Bắc - Nam là
61,30m. Ở vòng đàn này có 2 cửa ngách ra vào 2 bên và 4 cống thoát nước.
Ở mặt tường trong của tường đá ngăn cách giữa vòng đàn 2 và vòng đàn 3
có 2 mảng tường bị đổ xếp gối lên nhau còn khá nguyên vẹn, gồm vật liệu
đá và gạch bìa hình chữ nhật, ngói, gạch bìa được xây trên cùng của
tường. Thứ tự của các vật liệu này được xếp như sau (tính từ móng tường
trở lên): Các viên đá xây tường - 4 hàng gạch bìa xếp gối nhau - ngói âm
Dương. Căn cứ vào độ dày của vật liệu kiến trúc và mạch xây, các nhà
khảo cổ đã ước tính tường đá của vòng đàn 2 cao khoảng từ 2,26m đến
2,39m.
-
Vòng đàn 3 (ngoài cùng): Vòng đàn 3 hình tứ giác, bắt góc cong ở phía
Tây Bắc và Đông Bắc, chiều Tây Bắc - Đông Nam có chiều rộng là 116m. Cả
hai phía Tây Bắc và Đông Nam đã tìm được giới hạn của tường vòng đàn 3.
Đoạn tường chạy theo hướng Đông Bắc một phần lợi dụng vào đá núi tự
nhiên.
3.5.2. Dấu tích đường đi:
+ Dấu tích đường thần đạo
Là đường đi trung tâm dành riêng cho Vua (thiên tử) khi tiến hành tổ chức nghi lễ tế giao.

Dấu tích đường thần đạo
Qua
4 đợt khai quật con đường đã dần xuất lộ. Đường gồm một lối đi chính
(ở giữa) và hai lối đi phụ 2 bên. Đường rộng 4,8m, trong đó lối đi chính
rộng 2m, hai lối đi hai bên mỗi bên rộng 1,40m. Lối đi chính cao hơn
hai lối đi phụ 2 bên từ 5 - 7cm; mặt đường được lát bởi đá phiến hoặc đá
lớp. Rìa ngoài mép đường được kè đá phiến sét hoặc đá vôi chắc chắn.
Qua khai quật còn tìm thấy vết tích của con đường ở nền đàn 2 và nền đàn
3, tuy nhiên dấu vết còn lại cho thấy con đường thần đạo chạy suốt từ
nền trung tâm qua nền đàn 2, xuống nền đàn 3 và còn tiếp tục xuống nền
đàn 4 và 5. Việc tìm thấy con đường thần đạo góp phần quan trọng để xác
định trục trung tâm của Đàn Nam Giao và các kiến trúc hai bên trục đường
trung tâm.
+ Đường giữa vòng đàn 1 và vòng đàn 2
Qua
các cuộc khai quật đã làm xuất lộ dấu tích đường đi giữa hai vòng đàn.
Từ nền thứ cấp, qua cửa ngách hai bên dẫn vào đường này; đường được chia
ra thành hai hướng: hướng Bắc Nam và hướng Đông Tây.
Đường
theo hướng Bắc Nam có chiều rộng 2.40m, hướng Bắc dẫn vào dải đá núi
(khu vực có các phiến đá núi tự nhiên trông như hòn non bộ); hướng Nam
tiếp tục dẫn vào đường thần đạo. Đường theo hướng Đông Tây có chiều rộng
4.30m, hướng đi vào đường thần đạo.
Hiện
tại, đường đi giữa hai vòng đàn có nhiều gạch, ngói, đá đổ đè lên trên.
Đây là ngói lợp tường và đá xây tường đổ ra. Việc nghiên cứu để tìm rõ
về cấu trúc (có gạch lát hay có lợp mái đường hay không) đến nay vẫn
đang là một câu hỏi của các nhà nghiên cứu.
+ Đường dưới chân nền đàn 2
Qua
khai quật đã phát hiện đường này dưới chân của kè đá ngăn giữa nền đàn 2
và nền đàn 3, đường này được lát bằng đá phiến, đá lớp, đá vôi chạy
theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Muốn vào con đường này phải qua 2 cửa ở
phía Đông Nam và phía Tây Bắc, dấu vết còn lại là 4 cối cửa, độ dài
khoảng cách của 2 cửa là: 73,40m, đường rộng 1,60m. Trên con đường này
có những cống thoát nước kè bằng gạch bìa, gạch lát hoa chanh, đá phiến;
đáy cống lát gạch bìa hoặc đá phiến; cửa cống rộng 0,38m, sâu 0,13 -
0,15m.
3.5.3. Dấu tích nền sân lát gạch
Qua
các đợt khai quật đã phát hiện dấu tích nhiều mảng gạch lát sân ở vòng
đàn 1. Sân lát bằng 2 loại gạch: gạch vuông mỗi cạnh dài 0,48 - 0,50m;
gạch bìa hình chữ nhật thường được lát sát với hàng kè đứng của tường
đá. Như vậy, đã có những bằng chứng đầu tiên để nghĩ rằng toàn bộ sân
của nền đàn 2, 3 có thể được lát gạch.
3.5.4. Hệ thống cống thoát nước
Hệ
thống cống thoát nước nằm ở dưới tường đá các vòng đàn. Cống lớn nhất
nằm ở góc phía Đông Nam của nền đàn 3, có chức năng thoát nước của con
đường đi dưới chân của nền đàn 3 và nước từ các nền đàn bên trên thoát
xuống qua các hệ thống cống chân nền. Cống được làm ở góc phía Đông Nam
của đàn và được làm chui ngầm qua tường dọc của vòng đàn 3. Cửa cống
phía trong nằm ở hướng Tây Bắc, cửa cống phía ngoài nằm ở phía Đông Nam,
đáy cống được lát bằng đá phiến, đá lớp. Đây là một cống lớn, dẫn nước
chảy qua tường, còn khá nguyên vẹn.
3.5.5. Dấu tích Giếng Vua
Ở
góc phía Đông Nam của nền 4, khu vực giếng Vua (theo cách gọi của nhân
dân ở đây) đã được khai quật. Tại đây đã phát hiện ra một giếng hình
vuông xây bằng đá. Theo sách Vĩnh Lộc huyện chí của Lưu Công Đạo thì
giếng đá có tên là Ngự Dục hoặc Ngự Duyên.
Hiện
tại khu vực giếng đang được tiếp tục khai quật. Giếng nằm cách kè đá
của chân nền đàn 3 là 7m về phía Tây Nam. Giếng được xây gồm nhiều lớp
thành bằng đá hình vuông đồng tâm, trên to dưới nhỏ dần. Thành và miệng
giếng bên trên đã bị mất. Thành giếng còn lại ở trên cùng mỗi chiều rộng
14m.
4. Di vật:
Qua
các đợt khai quật, hàng ngàn di vật đã xuất lộ gồm: - Gốm men: Hầu hết
là gốm men thế kỷ XIV - XV gồm: Gốm men ngọc Việt Nam và Trung Quốc, gốm
lam mờ, gốm men trắng ngà rạn, gốm men nâu, gốm hoa nâu, gốm trong men
trắng ngoài men nâu. Đồ gốm men thế kỷ XVI, thế kỷ XVII có tỷ lệ rất ít,
đều là gốm men trắng vẽ lam. Loại hình gốm men thế kỷ XIV có: Bát, đĩa,
cốc, bình vôi...
- Vật liệu kiến trúc và trang trí kiến trúc:
Hầu
hết là thế kỷ XIV - XV, gồm: ngói mũi sen đơn, kép, gạch bìa (nhiều
viên có kích thước lớn 43-48,5cm x 24-26cm x 6-7,5cm), ngói sen cỡ lớn
(42cm x 30cm x3,7cm, mũi cao 8cm), ngói mũi vát (40cm x 21cm x 1,8cm),
ngói bò dài 46cm x 31cm, ngói âm, dương, mảnh lá đề, mảnh ốp kiến trúc,
mảnh trang trí kiến trúc in hình rồng...
- Đồ kim loại:
+
Đinh sắt: Có rất nhiều đinh sắt với nhiều kiểu dáng, dài ngắn khác
nhau. Số lượng rất lớn của đinh sắt đã cho hay, có khá nhiều ngói lợp
trên mái, cũng như số lượng rui mè được sử dụng đinh sắt.
+
Mũi tên: Sự có mặt của khá nhiều mũi tên, kim loại chứng minh rằng:
Những mũi tên này có thể được dùng trong nghi lễ và được lưu trữ trong
kho đặt tại khu vực này hoặc có thể đã có xung đột quân sự xảy ra ở khu
vực Đàn Nam Giao sau khi đàn này bị huỷ bỏ.
+
Tiền đồng: Ngoại trừ đồng tiền Ngũ Thù thời Đường có niên đại sớm nhất,
còn lại các đồng tiền Nguyên Phong thông bảo, Thánh Nguyên thông bảo
đều phù hợp với niên đại của Đàn Nam Giao. Chiếm số lượng lớn tiền đồng
phát hiện được ở Đàn Nam Giao là tiền thời Nguyễn, trong đó đáng kể nhất
là tiền Minh Mệnh thông bảo. Có chỗ những đồng tiền này được xâu thành 1
xâu gồm vài chục đồng. Rất có thể những loại tiền có niên đại muộn phát
hiện ở đây là đồ tùy táng hoặc chôn dấu của giai đoạn sau.
5. Giá trị của nghiên cứu Đàn Nam Giao Tây Đô
Niên
đại tuyệt đối của Lễ tế Giao nhà Hồ đã được cổ sử nước ta ghi chép
chính xác năm cử hành. Đại Việt sử kí toàn thư đã cho biết năm 1402 đã
cử hành Lễ tế Giao đầu tiên và cũng là duy nhất: “Tháng 8 [1402] Hán
Thương đắp Đàn Giao ở Đốn Sơn để lễ tế Giao, đại xá thiên hạ. Hôm tế,
Hán Thương ngồi kiệu Vân Long, từ cửa Nam đi ra, các Cung tần, mệnh phụ,
quan văn, quan võ trong Triều theo thứ tự đi sau. Mũ áo của đàn bà kém
chồng một bậc, nếu bản thân là tôn quý thì không kém. Nhưng vì khi dâng
chén rượu (Hán Thương) run tay, rượu bị đổ xuống đất nên phải dừng lại”
[Ngô Sĩ Liên 1985: 194].
Đàn
Nam Giao luôn luôn được dựng ở phía Nam Kinh thành và có cự ly không xa
để thuận lợi cho việc tế lễ của Vương triều. Đàn Nam Giao được xây dựng
dưới Triều Hồ, năm 1402, tuy niên đại không cổ bằng Đàn Nam Giao Thăng
Long nhưng cũng thuộc vào loại đàn Nam Giao cổ nhất ở nước ta. Mặt khác,
với mặt bằng hiện biết cũng cho thấy đây là một đàn tế hết sức độc đáo
được xây dựng ở vị trí khác biệt so với tất cả các Đàn Nam Giao khác đã
biết và có cấu trúc phức tạp nhất. Sức hấp dẫn của Đàn Nam Giao thời nhà
Hồ vừa ở tính chất cổ kính, vừa ở quy mô hoành tráng, dấu tích rõ ràng,
được dựng dựa vào núi, trong khi các Đàn Nam Giao của các triều đại
phong kiến Việt Nam và các quốc gia khác được dựng ở vùng đồng bằng.
Điều đặc biệt của Đàn Nam Giao nhà Hồ là chỉ cử hành lễ tế Giao một lần
duy nhất đã bị huỷ bỏ cho nên vẫn giữ được tính nguyên gốc của lần khởi
dựng.
(Theo NGÔ HOÀI CHUNG - Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao)
nguồn: http://hohovietnam.vn
No comments:
Post a Comment