Menu

Sunday, November 4, 2012

Lật giở truyền thuyết Thành nhà Hồ


Trong làn sương mờ ảo

Năm 1397, Thành nhà Hồ được Hồ Quý Ly cho xây dựng. Hơn 600 năm sau công trình bằng đá đồ sộ này đã được UNESCO công nhận là di sản của toàn nhân loại. Suốt những năm qua, nhiều nhà nghiên cứu đã dày công tìm hiểu về những bí mật ẩn chứa tại tòa thành này. Nhưng cho đến giờ chưa một ai đưa ra được lời giải thích thấu đáo và cặn kẽ. Phủ lên Thành nhà Hồ vẫn là một màn sương mờ ảo của truyền thuyết với nhiều chi tiết nửa thực, nửa hư…Là một công trình tồn tại hàng chục thế kỷ, nhưng không hiểu vì lý do gì, các thư tịch cổ đầu thế kỷ XV đã không ghi chép kỹ lưỡng về việc xây dựng thành của Hồ Quý Ly. Việc này chỉ được nhắc đến với vài dòng trong một số bộ chính sử. Và vì thế, việc nghiên cứu thành phần nhiều khi phải dựa vào truyền thuyết được người dân lưu truyền qua bao đời…
Kỹ thuật xây dựng “thần tốc”

Phụng mệnh Vua Trần Thuận Tông, năm 1397, Hồ Quý Ly vào động An Tôn, phủ Thanh Hóa, nay là khu vực các xã Vĩnh Tiến, Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tìm đất xây dựng thành lũy. Sự độc đáo, sáng tạo của Thành nhà Hồ nằm ở chỗ, vật liệu xây dựng, không giống như các kiểu thành từng được sử dụng trước đó. Chất liệu chính mà Hồ Quý Ly lựa chọn để xây nên tòa thành thế kỷ này là đá. Những phiến đá xanh được gọt đẽo vuông vức, xếp chồng lên nhau theo mạch chữ T. Các phiến đá ở bốn cổng thành Đông,Tây, Nam, Bắc thì xếp theo hình vòm như múi bưởi, tất cả đá đều có kích thước lớn, cá biệt, có những phiến đá nặng tới xấp xỉ 30 tấn. Trong 4 cửa, cửa phía Nam là cửa lớn nhất với chiều rộng 38m, cao 10m, mở 3 vòm cửa, các cổng còn lại chỉ có một vòm. Theo ước tính, để tòa thành hoàn thiện, người xưa đã phải sử dụng khoảng 100.000m3 đất, 20.000m3 đá.
Phía ngoài thành là một hệ thống hào, rộng tới 50m và sâu vài chục kilômét cùng một hệ thống lũy đất và La thành bằng tre gai vây quanh, chu vi các vòng thành ngoài này cũng lên tới cả chục kilômét. Sử cũ chép rằng, bên trong thành xưa còn có một con đường lát đá gọi là đường Hòe Nhai, chạy suốt từ cửa Đông cho tới chân núi Đốn Sơn, phía bên trong gồm điện Hoàng Nguyên, cung Nhân Thọ, cung Phù Cực… tất cả các công trình này đều chỉ được thực hiện trong vòng có 3 tháng. Nếu điều này là đúng, thì tốc độ xây dựng Thành nhà Hồ 600 năm về trước đã bỏ xa mọi kỹ thuật xây dựng hiện đại.
Tuy chính sử chép rõ ràng là 3 tháng (Đại Việt sử ký toàn thư) nhưng trong dân gian lại tồn tại một dị bản, rằng Hồ Quý Ly đã phải mất tới 6 năm để xây thành. Chuyện là, sau khi nghiên cứu phong thủy kỹ càng, Hồ Quý Ly đã chọn động An Tôn làm nơi dựng nghiệp lâu dài. Song, người con trai thứ 2 của ông là Hồ Hán Thương - cũng là một người am tường thuật phong thủy đã gạt đi mà rằng, đây chỉ là đất “Long - Xà ẩm thủy - Lục niên kỷ chú”, thế đất này còn non, nên chỉ trụ được trên dưới 6 năm mà thôi. Quả nhiên, sau khi lên ngôi Hoàng đế năm 1400, chỉ 3 tháng sau đó, Hồ Quý Ly đã nhường ngôi cho Hồ Hán Thương, và đến năm 1406, nhà Hồ đã thất thủ trước quân Minh xâm lược.
Lần theo câu chuyện dân gian này, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra một giả thiết: Nhà Hồ vừa xây dựng vừa ở cả thảy chỉ được 6 năm, năm 1407, khi nhà Hồ đã thất bại thì thành vẫn chưa hoàn thiện. Vậy chứng rõ ràng nhất là cửa thành phía Đông và phía Tây còn đang xây dựng dở dang, mới chỉ lắp đặt xong vòm cuốn, mà vẫn chưa xong 2 mặt cổng. Ngoài ra, còn đoạn cổng thành gần góc chính Bắc chừng 30m, các phiến đá mới chỉ được lắp ghép mà vẫn chưa xong phần gia công đẽo gọt…

Từ… giấy bản làm nên tòa thành?!

Thêm một điều nữa mà bất cứ du khách nào đến với Thành nhà Hồ cũng phải trầm trồ thán phục là bằng cách nào, các nghệ nhân và thợ thủ công xưa tách được các khối đá khổng lồ nặng hàng chục tấn từ trên núi, đưa về nơi chế tác, đẽo gọt vuông vức, bằng phẳng rồi lắp ghép lên các bức tường thành, có nơi cao đến cả chục mét. Để giải thích về điều kỳ diệu này, người dân Vĩnh Lộc giờ vẫn còn lưu truyền câu chuyện rằng, để xây được những vòm cuốn kỳ diệu kia, Hồ Quý Ly đã được sự giúp sức của thần linh. Ban ngày ông cho người cắt giấy thành hình những viên đá lớn rồi xếp lên nhau. Chỉ qua một đêm, giấy đã biến thành đá… Dân gian lưu truyền là thế, nhưng khi đi sâu vào tìm hiểu, các nhà khoa học đã khẳng định, việc Hồ Quý Ly bắt dân địa phương nộp giấy bản là có thật.
Ngoài việc lợi dụng thần linh để nâng cao uy quyền, nhà Hồ đã sử dụng giấy bản như là vật liệu xây dựng. Giấy bản được nghiền nát, trộn với mật, vôi và trấu để làm nên một chất kết dính tương tự như xi măng, rồi trát vào kẽ hở giữa các phiến đá. Các mẩu vữa ở Thành nhà Hồ từng được mang đi phân tích thành phần cấu tạo, kết quả khẳng định có sự tồn tại của giấy bản trong vữa.
Còn một câu chuyện khác cũng được lưu truyền trong dân gian rằng, lúc đầu, việc xây dựng các vòm cổng không thành công. Cứ xây lên là sập, mỗi ngày có tới cả chục người chết vì tai nạn lao động, ngón tay, ngón chân nhặt được cả rổ… Mãi sau, viên quan phụ trách mới có sáng kiến, dùng giấy bản cắt thành hình vòm cổng như dự định, rồi sai thợ gọt đẽo đá làm hệt theo mẫu đã đưa. Khi bắt đầu thi công, cho đắp đất cát bên trong làm cốt, rồi xếp đá lên theo hình vòm cuốn, khi hoàn thành được vòm cổng khít khao với độ cong cân đối, lúc đó mới moi đất ra.

Đi tìm nguồn gốc đá (*)

Khi đem đá trên các bức tường Thành nhà Hồ đi phân tích thành phần, mẫu đá ở đây lại không trùng với mẫu đá của bất kỳ quả núi nào trong khu vực. Vậy nhà Hồ lấy đá từ đâu để xây thành?
Trước đây, có nhiều nhà nghiên cứu, khi tìm hiểu về kỹ thuật xây Thành nhà Hồ đã khẳng định, người xưa lấy đá ở mấy ngọn núi Xuân Đài, An Tôn, Trác Phong gần đó làm nguyên vật liệu, lại cũng có giả thiết, đá được lấy từ núi An Hoạch (núi Nhồi) để xây, bởi đá ở đây khác với những nơi khác được xếp thành khối, vỉa, dễ dàng bóc tách. Nhưng gần đây, trong một kết quả phân tích đá theo phương pháp thạch học được thực hiện bởi các nhà khoa học Nhật Bản thì hàm lượng CaO, MgO, SiO2, SO3… của đá dùng xây thành hoàn toàn không giống đá ở những ngọn núi kể trên. Có giả thiết khác nảy sinh, ở phía Tây Nam của Thành nhà Hồ, trước kia có tới 5 núi đá, 3 ngọn được đặt tên Kim Ngưu, hai ngọn còn lại là Kim Ngọ.
Hiện các quả núi này đã không còn, nhưng dấu tích vẫn lưu lại ở cách cổng thành phía Tây vài trăm mét (khoảng 1500 mét)?) rằng nhà Hồ đã lấy đá ở đây xây thành? Đi kèm câu hỏi này còn rất nhiều thắc mắc khác, ví như bằng cách nào mà những người thợ đã tách được các phiến đá khổng lồ nặng vài chục tấn từ trên núi cao xuống để xây thành trong khi phương pháp nổ mìn phá đá chưa ra đời. Tiếp nữa, việc vận chuyển những khối đá khổng lồ về nơi xây dựng cũng là một điều phi thường.
Lại cũng theo lời kể của người dân địa phương, ngày đó, nhà Hồ cho đóng bè nứa, lợi dụng sông Bưởi, sông Mã, cùng hệ thống các hào nước mà vận chuyển đá vào thành. Tổng công trình sư khi đó còn cho xây một con đường lát đá để tiện việc chuyên chở vật liệu. Vào năm 2004, trong quá trình khai quật đã phát hiện một con đường lát đá xanh, chạy thẳng tắp từ cổng vào phía trong thành nội. Trong cuộc khảo cổ này cũng đã tìm thấy nhiều viên bi đá, to thì bằng quả bóng đá, nhỏ thì cỡ hơn nắm tay. Những viên bi đá này giúp củng cố giả thiết, người thợ khi xưa đã dùng chúng như những con lăn đề tời đá từ nơi khai thác về. Kết hợp với tời, đắp đất mà người xưa đã đưa được những tảng đá nặng cả chục tấn lên tới độ cao cần thiết.

Truân chuyên số phận rồng đá

Ngoài những cổng thành sừng sững rêu phong, còn có một hiện vật nữa của Thành nhà Hồ thu hút được sự quan tâm đặc biệt của du khách, đó là đôi rồng đá cụt đầu nằm trên trục đường chính nối từ cổng Nam sang cổng Bắc. Mất đầu bởi một vết chém rất “ngọt”, đôi rồng không chỉ là hiện vật quý giá mà còn là biểu trưng cho một triều đại vắn số nhất trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Số phận của đôi rồng này cũng lắm nỗi truân chuyên. Năm 1938, trong lúc làm đường, tình cờ phát hiện một thân rồng, nằm cách mặt ruộng chừng nửa mét. Rồng bao giờ cũng có cặp, nên người dân địa phương bảo nhau đào rộng ra, để tìm nốt con còn lại. Song, đào cả buổi mà vẫn chưa thấy đâu. Thế rồi, đêm đó Lý trưởng của làng là Trịnh Ngọc Lương nằm mơ thấy con rồng thứ 2, sáng sớm hôm sau, ông cho người đào đúng vị trí đã thấy trong mơ thì quả nhiên phát hiện ra con rồng thứ hai. Tuy nhiên, cả hai rồng, đều đã bị mất đầu từ bao giờ. Đây là loại rồng vẫn được chạm khắc trên thềm bậc của các cung điện như Kính Thiên - Hoàng thành hay Lam Kinh. Rồng có kích thước trung bình dài 3,4m, cao 0,9m. Cho đến nay, đã có nhiều lý giải về sự mất đầu của rồng. Người thì cho rằng, sau khi xâm lược nước ta, quân Minh với chính sách tàn phá đã chặt đầu rồng - biểu tượng quyền lực của nhà Hồ để thể hiện rằng, vương triều này đã thực sự bị diệt vong. Lại có ý kiến khác cho rằng, đây là “sản phẩm” của những người bất đồng chính kiến với nhà Hồ. Còn có một cách lý giải khác được lưu truyền trong dân khá thú vị là làng Xuân Giai - nằm ở cổng Nam, xã Vĩnh Tiến không hiểu vì lý do gì rất hay cháy nhà. Người dân khi đó đã cho rằng, do rồng quay đầu về làng mình phun lửa gây ra cháy, nên đã chặt đầu rồng đi để… trừ hậu họạ.

Chưa là điểm đến hấp dẫn

Cuối tháng 6 vừa qua, tại kỳ họp thứ 35 được tổ chức tại Paris, Pháp, Ủy ban Di sản Thế giới đã chính thức công nhận, tòa thành độc đáo bậc nhất Việt Nam trở thành Di sản văn hóa thế giới. Ngoài những vấn đề về tư tưởng, bối cảnh xã hội, thì điểm khiến các chuyên gia di sản thế giới quan tâm vẫn nằm ở kỹ thuật xây dựng. Các chuyên gia đã nhận xét rằng, kiến trúc Thành nhà Hồ là kết quả của sự kết hợp và sáng tạo các truyền thống xây dựng của cả Đông Á, Đông Nam Á và Việt Nam. Trong đó, kỹ thuật xây dựng đá lớn là kết tinh trí tuệ và kinh nghiệm của không chỉ bất kỳ một nền văn hóa nào, tạo nên bước đột phá của công nghệ xây dựng. Thêm nữa, tòa thành này còn là dấu mốc quan trọng, đánh dấu sự phát triển trong kiến trúc, công nghệ, nghệ thuật điêu khắc, quy hoạch thành phố và thiết kế cảnh quan của nền văn hóa Đông phương.
Được cả thế giới tôn vinh, nhưng cho đến nay, đáng buồn là Thành nhà Hồ vẫn chưa thực sự trở thành điểm đến hấp dẫn. Không nhiều du khách biết đến Thành nhà Hồ, khách du lịch nước ngoài lại càng không. Theo số liệu thống kê của Ban Quản lý Di sản năm 2010 vừa qua, di tích này chỉ đón khoảng 40.000 lượt khách tham quan. Đây là con số quá khiêm tốn, so với tầm vóc của di sản. Theo Ông Vương Văn Việt - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa, UBND tỉnh Thanh Hóa đang xây dựng một kế hoạch dài hơi nhằm nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị của di tích đặc biệt quan trọng này. Dự kiến, Thành nhà Hồ sẽ được quy hoạch theo hướng công viên khảo cổ.
Quỳnh Vân
______________
(*) - Bài này viết trước khi tìm ra nơi chế tác đá xây thành.


hình sưu tầm thêm:





No comments:

Post a Comment